Nguồn tin: Báo Bình Định, 04/10/2012
Ngày cập nhật:
6/10/2012
Năm 2012 là năm đầy khó khăn, thách thức đối với các doanh nghiệp (DN) chế biến thủy sản xuất khẩu (CBTSXK) của cả nước nói chung và tỉnh Bình Định nói riêng. Trong khi bài toán đầu vào vẫn chưa được giải quyết, thì thời gian gần đây các DN CBTSXK trên địa bàn tỉnh lại gặp khó ở thị trường đầu ra...
Chế biến cá xuất khẩu tại Công ty cổ phần Thủy sản Bình Định.
Lâu nay, hoạt động CBTSXK ở tỉnh Bình Định luôn đối diện với những khó khăn, tồn tại mang tính cố hữu, như thiếu nguyên liệu chế biến, công nghệ chế biến còn lạc hậu, sản phẩm đơn điệu… Bên cạnh đó, từ đầu năm 2012 đến nay, các DN CBTSXK trên địa bàn tỉnh gặp phải những khó khăn mới là chi phí đầu vào tăng cao, trong khi giá đầu ra không tăng.
Khó chồng lên khó
Theo tính toán của các DN, so với đầu năm 2011, hiện chi phí đầu vào của hoạt động CBTSXK tăng khoảng 30%. Trong khi đó, giá sản phẩm thủy sản xuất sang các thị trường truyền thống, như Mỹ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc… đều không tăng, thậm chí có lúc giảm.
Từ đầu năm đến nay, việc điều chỉnh lãi suất ngân hàng diễn ra rất chậm chạp, khiến nhiều DN vẫn phải xoay xở trả nợ vay với lãi suất cao. Bên cạnh đó, các chi phí đầu vào như: giá điện, nhân công, bao bì, cước vận chuyển, thuế bảo vệ môi trường đối với bao bì nhựa PE, phí kiểm dịch thú y… tăng, đã ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh (SXKD) của các DN CBTSXK. Đơn cử, chi phí kiểm nghiệm lô hàng thành phẩm trước khi xuất khẩu đã tăng trung bình 1,5 - 2 lần so với năm 2011. Việc lấy mẫu kiểm nghiệm lô hàng cùng các biện pháp, thủ tục kiểm soát khiến đa phần các lô hàng phải chờ cả tuần trước khi xuất khẩu, dẫn đến DN phải chịu thêm phí lưu kho bãi…
Đầu vào gặp khó, đầu ra hiện cũng đang rất khó khăn. Các DN CBTSXK ở tỉnh Bình Định nói riêng và cả nước nói chung đang phải đối phó với sự cạnh tranh mạnh mẽ từ các nước đối thủ xuất khẩu thủy sản như: Thái Lan, Indonesia và đặc biệt là Ấn Độ, khi Chính phủ nước này đã có các chính sách hỗ trợ nuôi tôm phục vụ chế biến xuất khẩu. Nhiều DN đã chấp nhận bán sản phẩm với giá bằng hoặc thấp hơn giá thành nhưng vẫn không có khách hàng.
Ngoài ra, tại thị trường Nhật Bản - thị trường lớn của các DN CBTSXK ở tỉnh Bình Định, các DN Việt Nam cũng đang gặp khó do các rào cản kỹ thuật. Ngày 31.8 vừa qua, các nhà nhập khẩu Nhật Bản đã thông báo sẽ tiến hành kiểm tra 100% lô tôm nhập khẩu từ Việt Nam về chỉ tiêu Ethoxyquin (chất dùng chống oxy hóa trong thức ăn chăn nuôi). Ngay sau khi có thông tin này, các DN CBTSXK trên địa bàn tỉnh đã giảm lượng hàng xuất sang thị trường Nhật Bản để tránh gặp rủi ro. Chính điều này mà các nước nhập khẩu khác đã “đè giá” sản phẩm thủy sản của các DN trên địa bàn tỉnh.
Bà Cao Thị Kim Lan, Giám đốc Công ty cổ phần Thủy sản Bình Định, cho biết: Trong bối cảnh kinh tế thế giới thời gian qua diễn biến khá phức tạp, chúng tôi không thể dự báo thị trường biến động theo chiều hướng nào để có kế hoạch đầu tư SXKD cho phù hợp. Hiện nay, giá đầu vào liên tục tăng, trong khi đầu ra gặp khó, đẩy các DN CBTSXK như chúng tôi đến chỗ khó khăn vì làm ăn không có lãi. Nhiều khi chỉ vì kỳ kèo vài chục đồng cho 1 kg sản phẩm nhưng cả hai bên đã không đi đến thống nhất được với nhau…
Cần tiến lên “chuyên nghiệp” thực sự
Ông Nguyễn Văn Thắng, Phó Giám đốc Sở Công Thương, cho biết: “Công bằng mà nói, khủng hoảng đã tác động đến SXKD của DN, lấy mất nhiều cơ hội lẫn lợi thế của DN này, nhưng đồng thời cũng tạo ra cơ hội, lợi thế cho DN khác. Những khó khăn trong thời gian qua cũng là điều kiện để ngành Thủy sản tỉnh Bình Định nhìn lại mình, phải chấn chỉnh lại từng khâu từ khai thác đến chế biến, xuất khẩu. Đã đến lúc ngành Thủy sản của tỉnh phải thay đổi công nghệ, phương thức quản lý sản xuất, tiến lên “chuyên nghiệp” thực sự”.
Theo các chuyên gia kinh tế, ngành CBTSXK luôn đặt ra những tiêu chuẩn, quy định rất nghiêm ngặt để đảm bảo các điều kiện về vệ sinh an toàn thực phẩm, do đó, chỉ cần một sai sót nhỏ khiến sản phẩm mất uy tín thì DN khó lòng làm ăn tiếp. Để ngành CBTSXK của tỉnh có thương hiệu, khẳng định được vị trí trên thị trường quốc tế, các DN CBTSXK phải có tầm nhìn xa nhằm vượt qua những thách thức và tìm kiếm cơ hội phát triển. Trong đó, các DN CBTSXK cần chuyển từ đầu tư chiều rộng sang đầu tư chiều sâu, bền vững; đổi mới thiết bị, công nghệ hiện đại. Với công nghệ sản xuất hiện đại, DN có thể tăng năng suất, chất lượng sản phẩm, rút ngắn thời gian sản xuất, hạn chế sức lao động, giảm giá thành sản phẩm... Ngoài ra, nếu biết tận dụng tính năng của các thiết bị hiện đại, các DN còn có thể tạo thêm nhiều sản phẩm mới trên cơ sở nguyên liệu hiện có, đặc biệt là các sản phẩm tinh chế, sản phẩm có giá trị gia tăng cao nhằm nâng cao giá trị xuất khẩu.
Ngoài ra, để tạo nguồn nguyên liệu ổn định phục vụ hoạt động CBTSXK, tỉnh cần tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng và thắt chặt công tác quản lý việc mua bán thủy sản ở các bến cá. Cơ quan quản lý nhà nước cần quan tâm quản lý chất lượng nguồn nguyên liệu trong khai thác, nuôi trồng thủy sản, đặc biệt là việc sử dụng kháng sinh trong nuôi trồng và hóa chất trong bảo quản thủy sản đánh bắt; cần phối hợp với DN trong việc xây dựng và củng cố thương hiệu hàng thủy sản xuất khẩu Bình Định… Những việc làm này không những làm tăng giá trị và uy tín của DN, mà còn giúp DN tránh được những rào cản thương mại mà các nước đã dựng lên trong thời gian qua và trong tương lai.
Theo Sở Công Thương, từ đầu năm đến nay, các DN CBTSXK trên địa bàn tỉnh đã chế biến và tiêu thụ 1.687 tấn tôm, tăng 1,5%; và 5.921 tấn cá các loại, tăng 16,3% so với cùng kỳ năm 2011. Mặc dù sản lượng có tăng, nhưng do chi phí đầu vào tăng cao, giá đầu ra không tăng, nên phần lớn DN làm ăn không hiệu quả. Theo kế hoạch, từ nay đến cuối năm 2012, các DN CBTSXK trên địa bàn tỉnh chế biến và tiêu thụ 669 tấn tôm và 1.600 tấn cá các loại.
NGỌC THÁI
- Kỹ thuật nuôi tôm, nuôi cá, phòng trị bệnh tôm, cá và các loại thủy sản khác
Các tin chế biến, xuất nhập khẩu thủy hải sản khác:
Các tin cũ: năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009 | 2008 | 2007:
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
38
39
40
41
42
43
44
45
46
47
48
49
50
51
52
53
54
55
56
57
58
59
60
61
62
63
64
65
66
67
68
69
70
71
72
73
74
75
76
77
78
79
80
81
82
83
84
85
86
87
88
89
90
91
92
93
94
95
96
97
98
99
100
101
102
103
104
105
106
107
108
109
110
111
112
113
114
115
116
117
118
119
120
121
122
123
124
125
126
127
128
129
130
131
132
133
134
135
136
137
138
139
140
141
142
143
144
145
146
147
148
149
150
151
152
153
154
155
156
157
158
159
160
161
162
163
164
165
166
167
168
169
170
171
172
173
174
175
176
177
178
179
180
181
182
183
184
185
186
187
188
189
190
191
192
193
194
195
196
197
198
199
200
201
202
203
204
205
206
207
208
209
210
211
212
213
214
215
216
217
218
219
220
221
222
223
224
225
226
227
228
229
230
231
232
233
234
235
236
237
238
239
240
241
242
243
244
245
246
247
248
249
250
251
252
253
254
255
256
257
258
259
260
261
262
263
264
265
266
267
268
269
270
271
272
273
274
275
276
277
278
279
280
281
282
283
284
285
286
287
288
289
290
291
292
293
294
295
296
297
298
299
300
301
302
303
304
305
306
307
308
309
310
311
312
313
314
315
316
317
318
319
320
321
322
323
Bệnh phân trắng không làm tôm chết nhanh và chết hàng loạt như bệnh đốm trắng hay bệnh gan tụy cấp, nhưng nếu không khống chế sẽ gây ra những thiệt hại to lớn cho người nuôi tôm...
Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.