Nguồn tin: Kinh Tế Sài Gòn, 22/11/2013
Ngày cập nhật:
25/11/2013
Cá tra đang suy giảm nghiêm trọng, cần những giải pháp quyết liệt để tái cơ cấu lại ngành - Ảnh: Phạm Thái.
Cá tra Việt Nam chiếm hơn 90% thị phần xuất khẩu cá tra thế giới, song, từ năm 2008 đến nay, niềm tự hào của ngành thủy sản đang phải trải qua cơn thoái trào: nhiều doanh nghiệp trên bờ vực phá sản, nông dân treo ao.
Ngoài nguyên nhân khách quan của thị trường thế giới, còn có những bất cập nội tại của ngành. "Làm thế nào để thay đổi cục diện ngành cá tra? Giải pháp nào để tái cơ cấu sản xuất và tiêu thụ cá tra? ... là những câu hỏi được đặt ra trong buổi tọa đàm nông nghiệp, nông dân, nông thôn diễn ra sáng 22-11 tại Hà Nội.
Cá tra trong cơn suy thoái
Theo thông tin tại cuộc tọa đàm, cá tra là sản phẩm thủy sản xuất khẩu chiến lược của Việt Nam và là mặt hàng cá thịt trắng nuôi chiếm vị trí quan trọng thứ hai trên thị trường thế giới. Cá tra đã trở thành hiện tượng đột phá, đạt được những thành tựu vượt trội: chỉ trong vòng 12 năm (2000-2012), phương thức nuôi cá tra đã chuyển biến nhanh với năng suất nuôi bình quân đạt 500 tấn/héc ta; sản lượng trên 1,3 triệu tấn/năm; khối lượng thành phẩm xuất khẩu vượt 600.000 tấn, kim ngạch xuất khẩu hàng năm lên đến 1,8 tỉ đô la Mỹ và xuất khẩu sang 136 quốc gia.
Ngành nuôi cá tra chỉ sử dụng một diện tích rất nhỏ, khoảng 6.000 héc ta, bằng 1% diện tích nuôi tôm và hầu như chưa đòi hỏi đầu tư nhà nước mà vẫn có năng lực cạnh tranh cao, tạo việc làm cho trên 300.000 công nhân, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nhất là ở các vùng nông thôn Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL).
Tuy nhiên, sau thời kỳ phát triển nóng, từ năm 2008 đến nay, ngành sản xuất cá tra Việt Nam gặp khó khăn, thách thức ngày càng gay gắt, sản xuất và xuất khẩu chững lại, biến động theo chiều hướng xấu.
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NN-PTNT), diện tích nuôi cá tra 9 tháng đầu năm 2013 chỉ đạt khoảng 5.600 héc ta, giảm 13% so với cùng kỳ năm ngoái, sản lượng cá tra đã thu hoạch chỉ đạt 732.000 tấn, giảm 11% so với cùng kỳ năm trước.
Uy tín chất lượng của sản phẩm cá tra tại nhiều thị trường bị suy giảm nghiêm trọng, tỷ trọng sản phẩm có giá trị gia tăng rất thấp (chưa đạt 1% tổng giá trị xuất khẩu cá tra). Theo ông Nguyễn Hữu Dũng – Phó chủ tịch Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản (VASEP), doanh nghiệp và người nuôi cá tra đã và đang phải trải qua giai đoạn “cực kỳ” khó khăn, nhiều doanh nghiệp đứng trước nguy cơ phá sản, người nuôi treo ao hoặc bỏ nghề.
Những khó khăn này được thể hiện ngay ở thị trường xuất khẩu chủ lực của Việt Nam là thị trường EU. Theo Bộ NN-PTNT, xuất khẩu cá tra sang EU giảm liên tục, từ mức 581 triệu đô la Mỹ năm 2008 xuống còn 425 triệu đô la Mỹ năm 2012, tốc độ giảm trung bình trên 5%/năm, thậm chí năm 2012 giảm tới 18,8%.
Tỷ trọng của thị trường EU giảm xuống gần một nửa, từ 48% năm 2007 xuống còn 24,4% năm 2012. Trong 8 tháng đầu năm 2013, xuất khẩu cá tra sang EU tiếp tục đà suy giảm: giá trị chỉ đạt 254 triệu đô la Mỹ (giảm 12,9% so với cùng kỳ năm 2012), tỉ trọng thị trường chỉ còn 22,4%.
Bên cạnh những tác động bất lợi từ bên ngoài, theo VASEP, sự yếu kém của các doanh nghiệp ngành cá tra và cơ chế quản lý còn nhiều hạn chế của Nhà nước cũng là nguyên nhân gây ách tắc trong ngành kinh tế quan trọng này.
Phải tái cơ cấu
Theo ông Nguyễn Hữu Dũng, để ổn định và quản lý được việc nuôi, chế biến và xuất khẩu cá tra cũng như tạo điều kiện để các doanh nghiệp được phát triển trong một cơ chế công bằng, cạnh tranh lành mạnh và nâng cao được giá trị cá tra thì việc sản xuất, chế biến và xuất khẩu cá tra cần được quy định là những hoạt động sản xuất kinh doanh có điều kiện.
Theo ông Dũng, về xuất khẩu, 94 doanh nghiệp có nhà máy chế biến cá tra đã chiếm 90% giá trị xuất khẩu. Các doanh nghiệp thương mại thuần túy (không có nhà máy chế biến) chỉ chiếm khoảng 10% tổng giá trị xuất khẩu cá tra của Việt Nam.
“Một số doanh nghiệp loại này lợi dụng những lỗ hổng trong quản lý Nhà nước, cạnh tranh không lành mạnh, tác động tiêu cực tới thị trường, làm giảm chất lượng và hình ảnh cá tra Việt Nam. Việc quy định điều kiện xuất khẩu các tra sẽ tạo điều kiện để áp dụng các biện pháp quản lý hoạt động sản xuất, chế biến và xuất khẩu cá tra một cách có hiệu quả” – ông Dũng nhấn mạnh.
Ngoài ra, để hạn chế hiện tượng thừa thiếu sản lượng cá tra do thiếu cơ chế liên kết giữa khâu sản xuất nguyên liệu với khâu chế biến, xuất khẩu và tiêu thụ, VASEP đề nghị áp dụng cơ chế phân bổ và kiểm soát hạn ngạch sản lượng nuôi cá tra.
Theo đó, hàng năm, căn cứ dự báo tình hình thị trường xuất khẩu và tiêu thụ nội địa, Bộ NN-PTNT chủ trì cùng UBND các tỉnh đồng thuận mức sản lượng cá tra năm sau và thống nhất phân bổ quota cho từng tỉnh. Sau đó, UBND tỉnh cùng với hiệp hội thủy sản tỉnh phân bổ quota sản lượng nuôi cá tra cho từng trại nuôi cá tra đã được cấp phép, phù hợp với điều kiện tự nhiên và năng lực của từng trại; đồng thời chịu trách nhiệm quản lý, kiểm soát việc thực hiện quota đó.
Hơn nữa, để tổ chức lại xuất khẩu, cần nghiên cứu áp dụng thí điểm việc tổ chức một đầu mối dịch vụ xuất khẩu các tra sang thị trường EU, sau đó rút kinh nghiệm mở rộng sang thị trường khác.
Cụ thể, theo ông Dũng, cần thiết lập một đầu mối dịch vụ xuất khẩu và phân phối sản phẩm cá tra, đảm nhiệm các khâu: dịch vụ đại lý, vận chuyển, logistics, kho ngoại quan, bán đấu giá trên sàn điện tử, phân phối đến khách hàng và dịch vụ đại lý thanh toán.
Theo ông Dũng, ưu điểm của phương thức tổ chức này là giảm đáng kể chi phí vận chuyển, các doanh nghiệp có cơ hội bán hàng trực tiếp cho các chuỗi siêu thị và các nhà bán lẻ lớn, nhờ đó, giá cá tra sẽ được nâng lên đáng kể; giá cá được thị trường xác lập qua cơ chế đấu giá công khai, giúp loại trừ được nguy cơ của các vụ kiện chống bán phá giá; việc thanh toán sẽ minh bạch và nhanh chóng, tránh tình trạng nợ đọng.
Thùy Dung
- Kỹ thuật nuôi tôm, nuôi cá, phòng trị bệnh tôm, cá và các loại thủy sản khác
Các tin chế biến, xuất nhập khẩu thủy hải sản khác:
Các tin cũ: năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009 | 2008 | 2007:
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
38
39
40
41
42
43
44
45
46
47
48
49
50
51
52
53
54
55
56
57
58
59
60
61
62
63
64
65
66
67
68
69
70
71
72
73
74
75
76
77
78
79
80
81
82
83
84
85
86
87
88
89
90
91
92
93
94
95
96
97
98
99
100
101
102
103
104
105
106
107
108
109
110
111
112
113
114
115
116
117
118
119
120
121
122
123
124
125
126
127
128
129
130
131
132
133
134
135
136
137
138
139
140
141
142
143
144
145
146
147
148
149
150
151
152
153
154
155
156
157
158
159
160
161
162
163
164
165
166
167
168
169
170
171
172
173
174
175
176
177
178
179
180
181
182
183
184
185
186
187
188
189
190
191
192
193
194
195
196
197
198
199
200
201
202
203
204
205
206
207
208
209
210
211
212
213
214
215
216
217
218
219
220
221
222
223
224
225
226
227
228
229
230
231
232
233
234
235
236
237
238
239
240
241
242
243
244
245
246
247
248
249
250
251
252
253
254
255
256
257
258
259
260
261
262
263
264
265
266
267
268
269
270
271
272
273
274
275
276
277
278
279
280
281
282
283
284
285
286
287
288
289
290
291
292
293
294
295
296
297
298
299
300
301
302
303
304
305
306
307
308
309
310
311
312
313
314
315
316
317
318
319
320
321
322
323
Bệnh phân trắng không làm tôm chết nhanh và chết hàng loạt như bệnh đốm trắng hay bệnh gan tụy cấp, nhưng nếu không khống chế sẽ gây ra những thiệt hại to lớn cho người nuôi tôm...
Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.