Nguồn tin: BRVT, 6/9/2007
Ngày cập nhật:
7/9/2007
Sơ chế bạch tuộc làm nguyên liệu chế biến mặt hàng Seafoodmix xuất đi thị trường Nhật Bản tại Công ty Baseafood
Hơn nửa năm qua, các doanh nghiệp chế biến thủy sản Việt Nam phải đối mặt với nhiều thử thách trên đường hội nhập. Có lúc họ đã phải trả giá không rẻ cho tấm “giấy thông hành” để đưa hàng hóa ra thị trường, đồng thời cũng đã học được nhiều bài học quý từ những cuộc sàng lọc nghiệt ngã ấy.
TỪ NHỮNG CÚ “NGÃ NGỰA”
Bắt đầu từ vụ mấy chục lô hàng hải sản của Việt Nam đã bị Nhật Bản trả về do tồn đọng dư lượng kháng sinh vượt mức cho phép. Để đáp ứng đòi hỏi của thị trường này, Cục Quản lý chất lượng, an toàn vệ sinh và thú y thủy sản Việt Nam (Nafiqaved) đã “ra tay” kiểm soát toàn bộ những lô hàng thủy sản xuất đi Nhật. Những doanh nghiệp “vướng” liên tiếp 3 lô hàng thì bị cấm xuất khẩu và phải có biện pháp khắc phục. Sau đó, nếu liên tiếp 5 lô hàng đạt thì doanh nghiệp mới được phép xuất lại vào thị trường Nhật. Để làm được như vậy, các doanh nghiệp phải kiểm tra lại toàn bộ quy trình chế biến của mình, đồng thời áp dụng chế độ kiểm soát dư lượng kháng sinh thật nghiêm ngặt từ khâu đầu đến khâu cuối. Từ đầu năm 2007 đến nay, cả nước có 98 đơn vị bị “vướng” dư lượng kháng sinh, trong đó vẫn còn 15 doanh nghiệp bị cấm xuất khẩu đang trong giai đoạn khắc phục dưới sự kiểm soát của Nafiqaved. Tại Bà Rịa – Vũng Tàu, với sản lượng hải sản xuất khẩu sang Nhật chiếm 75%-80%, nhiều doanh nghiệp chịu tác động rất lớn bởi sự kiện này. Công ty Baseafood là đơn vị có 30% hàng xuất sang Nhật cũng đã bị “vướng” 3 lô. Tuy nhiên, hiện tại, Baseafood đã có 25 lô hàng liên tục không bị “vướng” kháng sinh và được xếp vào trong số 71 doanh nghiệp được đưa ra khỏi danh sách kiểm tra nghiêm ngặt. Dù vậy, sản lượng hàng hóa xuất vào thị trường Nhật của doanh nghiệp này cũng đã giảm 30% –40% so với cùng kỳ năm trước.
Trong khi thị trường Nhật đã tạm ổn, thì hàng thủy sản Việt Nam lại gặp trắc trở ở thị trường Nga. Cục Kiểm dịch động, thực vật Liên bang Nga (VPSS) đột nhiên đặt ra những rào cản khắt khe đối với hàng thủy sản Việt Nam. Theo nhận xét của giới chuyên môn, thị trường Nga trước nay vẫn là thị trường dễ tính và người tiêu dùng Nga hoàn toàn chấp nhận hàng thủy sản Việt Nam. Nhưng trong vụ việc này, các nhà chức trách Nga đặt ra nhiều đòi hỏi thiếu căn cứ khoa học, chứ không rõ ràng như thị trường Nhật, thậm chí còn có phần phi lý. Điều này đã làm cho các doanh nghiệp bối rối, không biết phải ứng xử thế nào. Thị trường Nga từ 4 tháng qua gần như bị tê liệt. Ông Trần Văn Dũng, Giám đốc Công ty Baseafood cho biết, từ tháng 4 đến tháng 7, công ty này đã có 4 container hàng bị phía Nga làm khó, khiến việc giao thương ngưng trệ, trong khi trước đây mỗi tháng công ty xuất khoảng 100 tấn.
Đẩy mạnh tiêu thụ nội địa cũng là một hướng giải quyết đầu ra cho hàng thủy sản Việt Nam
Sau một thời gian dài thương thuyết, kết hợp áp dụng chế độ kiểm tra của phía đối tác thì rào cản bước đầu đã được khai thông. Ngày 6-8-2007, VPSS đã ra văn bản chấp thuận cho 11 doanh nghiệp VN được phép xuất khẩu thủy sản vào thị trường Liên bang Nga qua 2 nhà nhập khẩu: Saint Peterburg và Vladivostock, từ ngày 7-8-2007.
CHỜ VƯỚNG MỚI GỠ
Mặc dù thị trường xuất khẩu thủy sản bước đầu đã được khai thông, nhưng chưa thể nói là các doanh nghiệp Việt Nam đã “xuôi chèo mát mái”. Mới đây, phía Nhật lại nâng tiêu chí nhập hàng thủy sản VN từ 5-7 tiêu chí lên 25 – 30 tiêu chí, trong đó có những mặt hàng không cần thiết phải kiểm tra nhiều tiêu chí như vậy. Đó là chưa kể các doanh nghiệp phải duy trì chế độ kiểm soát dư lượng chặt chẽ, nếu không sẽ lại bị đưa vào danh sách các doanh nghiệp trong “tầm ngắm”. Còn đối với các doanh nghiệp chưa được phía đối tác “mở cửa” thị trường thì sự nỗ lực có thể sẽ còn dài hơn nữa.
Tuy nhiên, trong việc tháo gỡ những rào cản thương mại thời gian qua phía Việt Nam còn tỏ ra thụ động. Khi nào bị “vướng” thì mới tìm cách “gỡ”, chứ chưa chủ động đối phó. Theo một số chủ doanh nghiệp, trong thời gian tới, Nafiqaved và Hiệp hội Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (Vasep) cần chủ động tìm hiểu luật lệ và yêu cầu của các thị trường thông qua hiệp hội của các nước nhập khẩu. Từ đó, phổ biến cho các doanh nghiệp biết để chủ động đáp ứng, đừng để đến khi phía đối tác “lên tiếng” thì mới lo chấn chỉnh. Cũng trong quá trình tìm hiểu, nếu phát hiện thấy phía đối tác đưa ra những đòi hỏi quá mức, gây khó khăn tốn kém không cần thiết cho doanh nghiệp thì Hiệp hội phải kiến nghị ngay.
Huỳnh Liên
Ông Trần Văn Dũng, Giám đốc Công ty Baseafood: Cần có hệ thống cung ứng nguyên liệu sạch
Để hàng thủy sản Việt Nam đủ sức cạnh tranh trên thị trường, theo tôi, ngoài việc tăng cường quản lý chất lượng ở khâu chế biến, các doanh nghiệp cần thiết lập một hệ thống cung ứng nguyên liệu bảo đảm về chất lượng. Riêng Công ty Baseafood, thời gian qua đã áp dụng chế độ kiểm soát gắt gao từ đầu vào. Công ty đã chọn lọc lại số khách hàng có uy tín, yêu cầu các chủ vựa và chủ tàu cá phải ký cam kết cung ứng nguyên liệu sạch.
Để chủ động trong vấn đề tiêu thụ sản phẩm, theo tôi các doanh nghiệp thực hiện chiến lược mở rộng thị trường xuất khẩu, không nên quá trông chờ vào một vài thị trường truyền thống. Mặc dù, việc này đòi hỏi doanh nghiệp phải mất nhiều chi phí và thời gian (cho công tác xúc tiến thương mại: tìm hiểu thị trường, thị hiếu người tiêu dùng, thủ tục xuất hàng...) Từ đầu năm 2007 đến nay, Baseafood đã khai thác thêm nhiều thị trường mới ở khu vực Trung Đông như: Iran, Ảrập Xêut, Ai Cập và Pháp, Mỹ... Bên cạnh đó, đẩy mạnh sản xuất các mặt hàng đóng gói nhỏ, mở rộng mạng lưới tiêu thụ nội địa cũng là hướng giải quyết đầu ra.
- Kỹ thuật nuôi tôm, nuôi cá, phòng trị bệnh tôm, cá và các loại thủy sản khác
Các tin chế biến, xuất nhập khẩu thủy hải sản khác:
Các tin cũ: năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009 | 2008 | 2007:
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
38
39
40
41
42
43
44
45
46
47
48
49
50
51
52
53
54
55
56
57
58
59
60
61
62
63
64
65
66
67
68
69
70
71
72
73
74
75
76
77
78
79
80
81
82
83
84
85
86
87
88
89
90
91
92
93
94
95
96
97
98
99
100
101
102
103
104
105
106
107
108
109
110
111
112
113
114
115
116
117
118
119
120
121
122
123
124
125
126
127
128
129
130
131
132
133
134
135
136
137
138
139
140
141
142
143
144
145
146
147
148
149
150
151
152
153
154
155
156
157
158
159
160
161
162
163
164
165
166
167
168
169
170
171
172
173
174
175
176
177
178
179
180
181
182
183
184
185
186
187
188
189
190
191
192
193
194
195
196
197
198
199
200
201
202
203
204
205
206
207
208
209
210
211
212
213
214
215
216
217
218
219
220
221
222
223
224
225
226
227
228
229
230
231
232
233
234
235
236
237
238
239
240
241
242
243
244
245
246
247
248
249
250
251
252
253
254
255
256
257
258
259
260
261
262
263
264
265
266
267
268
269
270
271
272
273
274
275
276
277
278
279
280
281
282
283
284
285
286
287
288
289
290
291
292
293
294
295
296
297
298
299
300
301
302
303
304
305
306
307
308
309
310
311
312
313
314
315
316
317
318
319
320
321
322
323
Bệnh phân trắng không làm tôm chết nhanh và chết hàng loạt như bệnh đốm trắng hay bệnh gan tụy cấp, nhưng nếu không khống chế sẽ gây ra những thiệt hại to lớn cho người nuôi tôm...
Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.