Nguồn tin: BRVT, 8/1/2008
Ngày cập nhật:
9/1/2008
Theo các chuyên gia kinh tế biển, sản lượng hải sản khai thác cho phép ngoài khơi ở nước ta ước tính khoảng 1,1 triệu tấn, còn sản lượng cho phép khai thác gần bờ khoảng 600 ngàn tấn. Nhưng hiện nay, sản lượng khai thác gần bờ lại là 1,1 triệu tấn, còn khai thác xa bờ chỉ đạt 600 ngàn tấn. Trong bối cảnh đó, yêu cầu đặt ra là chuyển qua đánh bắt xa bờ để bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản.
TỶ LỆ CÁ TẠP: TỪ 30 ĐẾN 80%
Viện Kinh tế và Quy hoạch thủy sản (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) cho biết, trong thời gian qua, số lượng tàu cá ở nước ta phát triển một cách tự phát, hiện có khoảng trên 87.000 chiếc, trong đó có trên 10.000 tàu đánh bắt xa bờ, còn lại 80% tàu có công suất lắp máy dưới 90 CV. Mặc dù nguồn lợi thủy sản ven bờ đang đứng trước nguy cơ cạn kiệt, nhưng vì nhiều lý do, số lượng tàu cá cỡ nhỏ vẫn tăng bình quân 2.300 chiếc/năm và số lượng ngư dân trực tiếp khai thác thuỷ sản bình quân tăng 23.155 người/năm, kéo theo cường lực khai thác ven bờ không ngừng tăng. Vì cuộc sống trước mắt, ngư dân ven biển có thể dùng mọi biện pháp để đánh bắt như giảm kích thước mắt lưới, tăng cường độ khai thác, sử dụng cả những biện pháp có hại như chất nổ xung điện, chất độc, đánh bắt tất cả các cỡ cá, kể cả những đàn cá còn non tuổi. Hậu quả là năng suất đánh bắt giảm, tỷ lệ cá tạp trong các mẻ lưới ngày càng cao chiếm từ 30 đến 80% sản lượng đánh bắt thủy sản theo từng loại nghề cá. Doanh thu hoạt động khai thác giảm, tỷ lệ các tàu cá bị lỗ trong quá trình sản xuất ngày càng cao. Bên cạnh đó, giá xăng dầu ngày càng tăng đang là những khó khăn đối với ngư dân.
PHÁT TRIỂN KHOA HỌC CÔNG NGHỆ TRONG THUỶ SẢN
Theo ông Nguyễn Chu Hồi, Viện trưởng Viện Kinh tế Quy hoạch thủy sản có hai nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng trên: quản lý nguồn lợi, tổ chức khai thác và thiếu vốn.
Hiện nay vùng biển nước ta đã phát hiện khoảng 11.000 loài sinh vật cư trú trong hơn 20 kiểu hệ sinh thái biển thuộc 6 vùng đa dạng sinh học biển khác nhau, trong đó có ba vùng biển: Móng Cái - Đồ Sơn, Hải Vân- Đại Lãnh và Đại Lãnh – Vũng Tàu có mức đa dạng sinh học cao nhất. Trong đó có khoảng 6000 loài động vật đáy, 2.038 loài cá với trên 100 loài cá kinh tế.
Ông Hồi đưa ra giải pháp, trước mắt cần khai thác nguồn lợi thủy sản gắn liền với việc tính toán khả năng trữ lượng nguồn lợi thủy sản và bảo đảm tái tạo nguồn lợi mang tính quy luật. Để làm được điều đó cần phát triển khoa học công nghệ, coi đó là động lực của sự phát triển và là công cụ trong quản lý nguồn lợi cũng như trong tổ chức khai thác. Phát triển khoa học công nghệ trong thủy sản cần đầu tư mạnh cho điều tra cơ bản nguồn lợi thủy sản một cách hệ thống, nhằm nâng cao chất lượng thông tin dự báo ngư trường nguồn lợi thủy sản bằng cách xã hội hóa ngư trường và nguồn lợi thủy sản của các đơn vị nghiên cứu. Điều đó giúp ngư dân xác định chính xác bãi cá, dòng cá nổi di cư để đánh bắt hiệu quả, giảm bớt thời gian di chuyển ngư trường và hạn chế việc đánh bắt gần bờ. Những dự báo ngư trường cần chi tiết, cụ thể hơn và cần được chuyển giao cho ngư dân. Công tác dự báo này cần phối hợp với dự báo của ngư trường thế giới ở vùng biển Thái Bình Dương vì như vậy sẽ cho kết quả chính xác hơn.
Ông Đỗ Văn Khương, Viện trưởng Viện nghiên cứu hải sản cho rằng, cần giảm số lượng tàu đánh bắt ven bờ và tổng công suất máy, cho phù hợp với tổng sản lượng khai thác cho phép của nguồn lợi thủy sản ven bờ, đồng thời điều chỉnh cơ cấu nghề nghiệp của cộng đồng ngư dân đánh bắt thủy sản ven bờ. Đối với nghề đánh bắt xa bờ cần bảo đảm phát triển bền vững hiệu quả, đồng thời duy trì cả những chức năng hệ sinh thái biển và cả quan hệ hài hòa với nghề cá ven bờ. Tiếp tục điều tra về tàu thuyền, ngư cụ, nghiên cứu mô hình tổ chức khai thác xa bờ, thu mua cá trên biển… để hỗ trợ các tàu đánh bắt xa bờ sản xuất ổn định, đạt hiệu quả cao.
Theo ông Khương, nên giữ nguyên số lượng tàu đánh bắt gần bờ có công suất nhỏ như hiện nay, nhưng không cho phép đóng thêm để số tàu này khi “già nua” sẽ tự đào thải và giảm được số lượng. Việc không cho đóng thêm tàu công suất nhỏ sẽ được giao trách nhiệm cho từng địa phương quản lý giám sát. Bên cạnh đó, nên chuyển đổi một số lượng hợp lý ngư dân khai thác ven bờ sang ngành nghề khác, bao gồm thực hiện chương trình hỗ trợ khác, huấn luyện kỹ thuật, tư vấn nghề nghiệp, hỗ trợ vốn tín dụng, hoặc có những chính sách hỗ trợ để ngư dân chuyển từ đánh bắt gần bờ sang đánh bắt xa bờ. Ông Khương nhấn mạnh, thiếu vốn là khó khăn lớn nhất để ngư dân chuyển đổi sang nghề khác, cũng như từ đánh bắt gần bờ sang đánh bắt xa bờ.
Chia sẻ với khó khăn trên, ông Lê Tiêu La, Phó Viện trưởng Viện Kinh tế và Quy hoạch thủy sản đưa ra giải pháp mang tính tổng hợp của nhiều giải pháp nhỏ là: xây dựng thị trường vốn, chính sách tận dụng nguồn vốn trong nước, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, vốn vay ưu đãi, vốn ODA dành riêng và chú ý đặc biệt cho 25 triệu ngư dân biển đảo. Đặc biệt, Nhà nước cần tạo môi trường pháp lý trong việc phối hợp giữa ngân hàng và các cơ sở chế biến hải sản để các cơ sở đó trở thành một trong những tổ chức tín chấp giúp ngư dân tiếp cận nguồn vốn vay của ngân hàng. Điều này có thể hạn chế tình trạng ép giá của một số cơ sở dịch vụ tư nhân đang tồn tại trong cộng đồng ngư dân. Bên cạnh đó, trong việc chuyển đổi cơ cấu nghề nghiệp cũng cần xác định dung lượng vốn, thời gian vay, lãi suất vay phù hợp với từng loại hình nghề nghiệp được chuyển đổi và kiêm nghề nhằm ổn định, mở rộng và phát triển sản xuất cho bà con ngư dân.
Trần Lan
- Kỹ thuật nuôi tôm, nuôi cá, phòng trị bệnh tôm, cá và các loại thủy sản khác
Các tin chế biến, xuất nhập khẩu thủy hải sản khác:
Các tin cũ: năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009 | 2008 | 2007:
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
38
39
40
41
42
43
44
45
46
47
48
49
50
51
52
53
54
55
56
57
58
59
60
61
62
63
64
65
66
67
68
69
70
71
72
73
74
75
76
77
78
79
80
81
82
83
84
85
86
87
88
89
90
91
92
93
94
95
96
97
98
99
100
101
102
103
104
105
106
107
108
109
110
111
112
113
114
115
116
117
118
119
120
121
122
123
124
125
126
127
128
129
130
131
132
133
134
135
136
137
138
139
140
141
142
143
144
145
146
147
148
149
150
151
152
153
154
155
156
157
158
159
160
161
162
163
164
165
166
167
168
169
170
171
172
173
174
175
176
177
178
179
180
181
182
183
184
185
186
187
188
189
190
191
192
193
194
195
196
197
198
199
200
201
202
203
204
205
206
207
208
209
210
211
212
213
214
215
216
217
218
219
220
221
222
223
224
225
226
227
228
229
230
231
232
233
234
235
236
237
238
239
240
241
242
243
244
245
246
247
248
249
250
251
252
253
254
255
256
257
258
259
260
261
262
263
264
265
266
267
268
269
270
271
272
273
274
275
276
277
278
279
280
281
282
283
284
285
286
287
288
289
290
291
292
293
294
295
296
297
298
299
300
301
302
303
304
305
306
307
308
309
310
311
312
313
314
315
316
317
318
319
320
321
322
323
Bệnh phân trắng không làm tôm chết nhanh và chết hàng loạt như bệnh đốm trắng hay bệnh gan tụy cấp, nhưng nếu không khống chế sẽ gây ra những thiệt hại to lớn cho người nuôi tôm...
Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.