Nguồn tin: VOV, 10/02/2008
Ngày cập nhật:
11/2/2008
Hoạt động xuất khẩu thuỷ sản bắt đầu từ rất sớm nên ngành thuỷ sản được xem là có kinh nghiệm trong hội nhập. Khi Việt Nam gia nhập WTO, ngành thuỷ sản đã tận dụng cơ hội và vượt qua thách thức như thế nào? Hệ thống chính sách cũng như hành lang pháp lý đã hỗ trợ doanh nghiệp ra sao?
Việt Nam trong top 10 nước xuất khẩu thủy sản lớn nhất thế giới
Hoạt động xuất khẩu thuỷ sản bắt đầu từ những năm 80 của thế kỷ trước và có tốc độ tăng trưởng ấn tượng trong 10 năm trở lại đây. Năm 2007, sản lượng thủy sản cả nước ước đạt 3,9 triệu tấn, trong đó, khai thác đạt 1,95 triệu tấn, nuôi trồng 1,95 triệu tấn, với kim ngạch xuất khẩu 3,75 tỷ USD. Công nghệ chế biến thủy sản của các doanh nghiệp (DN) Việt Nam hiện nay ngang với trình độ của các nước trong khu vực và bước đầu tiếp cận với công nghệ của thế giới. Việt Nam có 470 DN chế biến thuỷ sản đông lạnh thì 346 cơ sở đạt tiêu chuẩn ngành về ATVSTP, trong đó 245 DN được phép xuất khẩu sang EU, 34 DN được xuất vào Mỹ và Canada. Thuỷ sản là một trong ngành kinh tế sớm lấy xuất khẩu làm hướng ưu tiên phát triển. Năm 2007, kim ngạch xuất khẩu thủy sản Việt Nam đạt 3,75 tỷ USD (tăng gần 12% so với năm 2006), đưa nước ta nằm trong top 10 nước xuất khẩu thủy sản lớn nhất thế giới. Con số này giúp thủy sản tiếp tục duy trì ngôi vị thứ 4 trong những mặt hàng xuất khẩu hàng đầu Việt Nam, đồng thời khẳng định, thủy sản là ngành kinh tế hiệu quả và mang lại nhiều lợi ích xã hội.
Đáng chú ý, dù là năm đầu tiên gia nhập WTO, nhưng xuất khẩu thủy sản có chuyển biến lớn về nhiều mặt: số lượng DN đạt tiêu chuẩn xuất khẩu vào các thị trường khó tính (EU, Mỹ, Nhật Bản…) tăng hai lần so với trước; hàng thủy sản Việt Nam đã có mặt tại 130 quốc gia và vùng lãnh thổ; sản phẩm xuất khẩu đa dạng hơn về chủng loại.
Tuy nhiên, xuất khẩu thuỷ sản cũng còn nhiều thách thức, trong đó chủ yếu là các hàng rào kỹ thuật mới từ các thị trường nhập khẩu đòi hỏi ngày càng cao. Bởi vậy, các DN thuỷ sản phải không ngừng đổi mới công nghệ để đáp ứng yêu cầu ngày càng khắt khe của thị trường. Bên cạnh đó, cũng cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan quản lý và DN để siết chặt công tác kiểm tra, kiểm soát an toàn vệ sinh chất lượng hàng thủy sản. Có làm tốt được điều này, năm 2008 mới có thể đạt được mục tiêu kim ngạch xuất khẩu khoảng 4,25 tỷ USD. Ngành thủy sản cũng phải đẩy mạnh sử dụng các tiến bộ công nghệ sinh học để phát triển nuôi trồng thủy sản trên quy mô lớn, giảm thuế nhập khẩu thủy sản để tạo điều kiện cho các DN giải quyết vấn đề thiếu nguyên liệu, đa dạng mặt hàng và tăng cường chế biến hàng có giá trị gia tăng cao. Trong kế hoạch phát triển giai đoạn 2010-2020, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đặt mục tiêu, giá trị xuất khẩu của riêng thủy sản phải đạt tối thiểu 7 tỷ USD (gấp đôi năm 2007), đòi hỏi ngành thủy sản phải có những bước chuyển cơ bản trong tư duy phát triển kinh tế thủy sản bền vững.
Doanh nghiệp thuỷ sản năng động
Ông Lương Lê Phương, Thứ trưởng Bộ NN&PTNT cho rằng, các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu thuỷ sản rất năng động, thể hiện qua các mặt sau: Thứ nhất là họ chăm lo đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực. Thứ hai, chú ý đổi mới về phương pháp quản lý. Thứ ba, luôn cải tiến công nghệ. Thứ tư, thực hiện tốt việc quản lý tài chính. Thứ năm, do sớm hội nhập nên các DN khá năng động trong việc đáp ứng các yêu cầu của thị trường, cả về công nghệ chế biến cũng như yêu cầu ngày càng cao về chất lượng và ATVSTP.
Tính chuyên nghiệp của các DN chế biến và xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam ngày càng được nâng cao. Giám đốc cũng như nhân viên kỹ thuật nắm bắt nhanh nhạy công nghệ mới, nắm bắt thông tin thị trường, nghiên cứu phát triển sản phẩm mới và đảm bảo ATVSTP.
Các DN xuất khẩu thuỷ sản luôn chủ động tham gia các hoạt động xúc tiến thương mại do Bộ NN&PTNT và VASEP tổ chức, vì vậy đã chủ động điều tiết và phát triển thị trường, đưa giá trị kim ngạch xuất khẩu thủy sản ngày càng tăng. Họ cũng tích cực nắm bắt các luật lệ quốc tế cũng như các quy định của các nước thông qua các lớp đào tạo, tập huấn hoặc hội thảo.
Cũng theo Thứ trưởng Lương Lê Phương, Nhà nước đang hỗ trợ các DN xuất khẩu thuỷ sản ở những lĩnh vực: Thứ nhất, đầu tư và nâng cấp các cơ sở chế biến để trang thiết bị đạt yêu cầu ATVSTP của thế giới. Thứ hai, hướng dẫn DN các quy định quốc tế liên quan đến thương mại hội nhập. Thứ ba, cung cấp thông tin và định hướng phát triển sản xuất kinh doanh cho các DN. Thứ tư, chỉ đạo sản xuất kinh doanh đáp ứng yêu cầu thị trường quốc tế và yêu cầu phát triển bền vững. Thứ năm, hướng dẫn các DN xử lý các vướng mắc trong thương mại quốc tế. Cũng còn một số khó khăn mà Nhà nước phải tham gia cùng cộng đồng DN giải quyết. Thứ nhất là hệ thống cơ chế chính sách, quy chuẩn, tiêu chuẩn và định mức kinh tế kỹ thuật phải được điều chỉnh để ngày càng đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh và phù hợp với yêu cầu của hội nhập. Thứ hai là cơ cấu tổ chức và quản lý chuyên ngành phải được điều chỉnh để nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý và điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh thuỷ sản. Thứ ba là thực hiện chỉ đạo kiên quyết cải cách hành chính và ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý Nhà nước. Thứ tư là đội ngũ cán bộ quản lý và cán bộ chuyên ngành cũng phải được đào tạo và đạo tạo lại.
Cạnh tranh và hợp tác
TS. Nguyễn Hữu Dũng, Phó Chủ tịch thường trực Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam (VASEP) nhận định: Khi Việt Nam gia nhập WTO, cạnh tranh sẽ tăng lên. Cạnh tranh trên thương trường quốc tế không phải là việc nhăm nhe hạ gục đối thủ. Giải pháp để cùng thắng cũng rất được coi trọng, bởi vì trong nhiều trường hợp, bạn hàng thắng thì chúng ta mới thắng và khi chúng ta thắng, cũng đừng để cho bạn hàng “chết”. Cạnh tranh và hợp tác là hai mặt không thể tách rời trong quá trình hội nhập.
Theo TS Nguyễn Hữu Dũng, khi hội nhập, các DN gặp thuận lợi ở những điểm sau: Thứ nhất, Nhà nước đã thay đổi rất nhiều điểm trong hệ thống luật pháp, tạo cơ hội thuận lợi cho các DN xuất khẩu. Thứ hai, cách hành xử của các cơ quan Nhà nước chuyển động theo hướng ngày càng minh bạch, công khai. Đây là cơ hội để DN tham gia phản biện và chủ động tác động đến việc ban hành các chính sách của Nhà nước có liên quan đến cộng đồng DN. VASEP cũng đã ký kết một thoả thuận hợp tác với Bộ NN&PTNT, khẳng định vai trò đối tác với cơ quan quản lý Nhà nước. Thứ ba, đòi hỏi đối tác nước ngoài thực hiện đúng luật chơi WTO. Thứ tư, việc tham gia vào sân chơi rộng lớn tạo sức ép, thách thức nhưng thúc đẩy nhanh quá trình tích tụ và hội tụ ở trong khu vực DN để tìm ra đối tác lớn hơn, toàn cầu hơn.
Tuy nhiên, theo TS Nguyễn Hữu Dũng, chúng ta cũng phải nhìn rõ yếu kém để khắc phục. Yếu kém lớn nhất là khâu nguyên liệu đang rất thiếu, chưa có sự liên kết chặt chẽ giữa vùng sản xuất với chế biến. Thứ hai là khâu marketing. Thứ ba, thiếu đội ngũ các nhà quản lý cũng như lao động có trình độ.
Thách thức lớn trên thương trường quốc tế là các nước tăng cường yêu cầu khắt khe hơn về ATVSTP nên DN phải thường xuyên chuẩn bị để đáp ứng. Các DN phải phát triển cả liên kết dọc từ chăn nuôi đến bàn ăn và liên kết ngang giữa các DN với nhau. Và điều quan trọng là làm sao để tăng được tỷ trọng của chuỗi giá trị quốc gia trong tổng giá trị quốc tế. Tỉ trọng này hiện nay đang rất thấp.
Các doanh nghiệp đã tích luỹ được kinh nghiệm
Luật gia Nguyễn Thu Trang, Trung tâm Trọng tài quốc tế, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam cho rằng, trong hoạt động xuất khẩu có thể gặp những rủi ro, rắc rối khi thực hiện hợp đồng với đối tác. Có những rắc rối không chỉ cho từng cá nhân DN mà liên quan đến tất cả các DN cùng xuất khẩu một mặt hàng vào cùng một thị trường. Những rắc rối này thường gặp dưới hai dạng. Một là, có những quy định mà chúng ta chưa nắm hết hoặc chúng ta chưa biết cách thực hiện đầy đủ cho nên vi phạm, ví dụ như những quy định về mặt kỹ thuật liên quan đến ATVSTP, các quy định về nhãn mác, tên gọi của hàng hóa. Hai là, khi tăng lượng nhập khẩu, cạnh tranh bằng giá cả rẻ, chúng ta có thể gây thiệt hại cho ngành sản xuất nội địa của nước nhập khẩu, vì thế họ có thể sử dụng công cụ mang tính chất bảo hộ, như chống bán phá giá, trợ cấp... để ngăn chặn lượng hàng nhập khẩu.
Tính từ vụ kiện bán phá giá đầu tiên vào năm 1994, đến nay có gần 30 vụ kiện chống bán phá giá và tự vệ. Những vụ kiện này giúp các DN làm quen với thực tế khó tránh khỏi trong thương mại quốc tế. Qua những vụ kiện như vậy, các DN tích lũy được kinh nghiệm, đã có nhận thức đúng và chuẩn bị chu đáo hơn để khi xảy ra kiện tụng thì có cách hành xử phù hợp hơn, giảm bớt thiệt hại.
Những vụ kiện bán phá giá được thực hiện trên cơ sở đơn kiện của ngành sản xuất nước nhập khẩu và do cơ quan có thẩm quyền của nước nhập khẩu xử. Trọng tài là người của họ nên khó có kết quả công bằng. Do đó, các DN xuất khẩu thuỷ sản phải luôn chuẩn bị đối phó để giảm thiểu thiệt hại có thể xảy ra. Những vụ kiện như vậy cũng đòi hỏi sự nỗ lực của tất cả DN trong việc phối hợp với nhau để đối phó.
Thủ tục để giải quyết tranh chấp trong WTO là thủ tục để giải quyết tranh chấp giữa các chính phủ với nhau, liên quan đến việc thực hiện quy định của WTO. Cụ thể là, trong WTO có hiệp định chống bán phá giá, các nước khi thực hiện kiện chống bán phá giá thì phải tuân thủ hiệp định này. Các DN Việt Nam thấy họ áp dụng hiệp định này nếu có điều gì không đúng thì có thể tập hợp chứng cứ để Chính phủ Việt Nam đứng ra kiện theo thủ tục của WTO./.
PV
- Kỹ thuật nuôi tôm, nuôi cá, phòng trị bệnh tôm, cá và các loại thủy sản khác
Các tin chế biến, xuất nhập khẩu thủy hải sản khác:
Các tin cũ: năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009 | 2008 | 2007:
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
38
39
40
41
42
43
44
45
46
47
48
49
50
51
52
53
54
55
56
57
58
59
60
61
62
63
64
65
66
67
68
69
70
71
72
73
74
75
76
77
78
79
80
81
82
83
84
85
86
87
88
89
90
91
92
93
94
95
96
97
98
99
100
101
102
103
104
105
106
107
108
109
110
111
112
113
114
115
116
117
118
119
120
121
122
123
124
125
126
127
128
129
130
131
132
133
134
135
136
137
138
139
140
141
142
143
144
145
146
147
148
149
150
151
152
153
154
155
156
157
158
159
160
161
162
163
164
165
166
167
168
169
170
171
172
173
174
175
176
177
178
179
180
181
182
183
184
185
186
187
188
189
190
191
192
193
194
195
196
197
198
199
200
201
202
203
204
205
206
207
208
209
210
211
212
213
214
215
216
217
218
219
220
221
222
223
224
225
226
227
228
229
230
231
232
233
234
235
236
237
238
239
240
241
242
243
244
245
246
247
248
249
250
251
252
253
254
255
256
257
258
259
260
261
262
263
264
265
266
267
268
269
270
271
272
273
274
275
276
277
278
279
280
281
282
283
284
285
286
287
288
289
290
291
292
293
294
295
296
297
298
299
300
301
302
303
304
305
306
307
308
309
310
311
312
313
314
315
316
317
318
319
320
321
322
323
Bệnh phân trắng không làm tôm chết nhanh và chết hàng loạt như bệnh đốm trắng hay bệnh gan tụy cấp, nhưng nếu không khống chế sẽ gây ra những thiệt hại to lớn cho người nuôi tôm...
Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.