Nguồn tin: Báo Cần Thơ, 18/07/2010
Ngày cập nhật:
21/7/2010
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) có nhiều lợi thế và tiềm năng cho phát triển nuôi trồng, chế biến và xuất khẩu thủy sản (TS). Khi thị trường TS thế giới và trong nước phát triển sôi động, TS ĐBSCL đã góp phần mạnh mẽ khẳng định vị thế của TS Việt Nam trên trường quốc tế. Tuy nhiên, phát triển quá “nóng” nhưng lại thiếu quy hoạch, định hướng, thiếu kiểm soát… khiến TS ĐBSCL đứng trước nguy cơ phát triển không bền vững, đòi hỏi cần có những giải pháp, định hướng đúng đắn để TS tiếp tục khẳng định là ngành kinh tế mũi nhọn của ĐBSCL và cả nước.
PHÁT HUY LỢI THẾ
Hệ thống sông Mekong đã tạo cho vùng ĐBSCL tiềm năng lớn để phát triển ngành nuôi trồng thủy sản (NTTS) ở cả 3 vùng nuôi (nước lợ, nước ngọt, nuôi biển) và khai thác biển. Hơn thế, nhiều năm nay, chế biến TS xuất khẩu ở ĐBSCL đã và đang tiếp tục khẳng định thế mạnh so với các ngành kinh tế khác của khu vực và cả nước.
Vùng sinh thái đặc thù
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT), toàn vùng ĐBSCL có khoảng 750 km bờ biển (chiếm khoảng 23% tổng chiều dài bờ biển toàn quốc) với 22 cửa sông, cửa lạch và hơn 800.000 ha bãi triều (70 - 80% là bãi triều cao). Vào mùa khô, độ mặn nước biển ven bờ ở ĐBSCL vào khoảng 20 – 30‰, mùa mưa từ 5 - 20‰, xâm nhập mặn theo các sông nhánh vào nội đồng nhiều đến 40 – 60 km. Tiến sĩ Nguyễn Thanh Tùng, Phó Viện trưởng Viện Kinh tế và Quy hoạch TS, Bộ NN&PTNT, nhận định: ĐBSCL có những vùng đất ngập nước quy mô lớn, đa dạng về kiểu môi trường sinh thái (mặn, lợ, ngọt). Đồng thời, các hệ thống canh tác tương đối đồng nhất, đôi khi không phân biệt được bằng địa giới hành chính như: vùng tứ giác Long Xuyên, vùng Đồng Tháp Mười, bán đảo Cà Mau... Điều kiện giao thoa mặn, lợ, ngọt nêu trên cũng đã tạo nên một vùng sinh thái đặc thù, hiếm thấy trên thế giới, rất thuận lợi cho phát triển sản xuất TS hàng hóa tập trung.
Nói đến NTTS vùng ĐBSCL, ưu thế vẫn là nuôi nước lợ (chủ yếu là nuôi tôm nước lợ) và nuôi nước ngọt (cá tra, cá ba sa). Ngoài ra, vùng này còn có tiềm năng môi trường nuôi các loài nhuyễn thể, các loài TS khác như cá lóc, cá rô, cá da trơn, lươn... Trên thực tế, NTTS ở ĐBSCL đã trở thành một nghề truyền thống và không ngừng thay đổi. Theo tính toán của Bộ NN&PTNT, tổng diện tích có khả năng NTTS ở ĐBSCL hơn 1,2 triệu ha, chiếm gần 60% diện tích NTTS của cả nước; trong đó, diện tích có khả năng NTTS vùng triều khoảng 750.300 ha. Vùng bán đảo Cà Mau có diện tích tiềm năng cho phát triển NTTS mặn lợ rất lớn (trên 630.000 ha), khu vực ven sông Hậu và sông Tiền có diện tích vùng triều ít hơn (trên 123.000 ha). Diện tích có khả năng nuôi thủy sản nước ngọt cũng rất phong phú với trên 500.000 ha được xác định là có điều kiện rất thuận lợi và phân bố chủ yếu ở các tỉnh: Tiền Giang, Long An, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, An Giang, Đồng Tháp, Vĩnh Long và TP Cần Thơ. Tiến sĩ Nguyễn Thanh Tùng khẳng định: Với đặc thù là vùng châu thổ của hệ thống sông Mekong đã tạo cho vùng ĐBSCL tiềm năng lớn cho phát triển NTTS ở nhiều loại hình nuôi khác nhau. Cụ thể như: nuôi nước lợ (ao đầm tự nhiên, lúa nhiễm mặn, ruộng muối), nuôi nước ngọt (ao hồ nhỏ, ruộng trũng, các cù lao/cồn, trên sông) và nuôi biển (nuôi bãi triều và nuôi lồng trên biển)...
Thế mạnh về đánh bắt và khai thác
Theo Cục Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi TS, ĐBSCL có diện tích vùng biển đặc quyền kinh tế rộng khoảng 360.000 km2, chiếm 37% tổng diện tích vùng đặc quyền kinh tế của cả nước và hàng trăm đảo lớn nhỏ thuộc hai ngư trường trọng điểm là Đông và Tây Nam Bộ. Trữ lượng cá biển ở 2 ngư trường này trên 2,5 triệu tấn, chiếm 62% của cả nước. Khả năng cho phép khai thác tối đa trên 1 triệu tấn (cá đáy khoảng 700.000 tấn, cá nổi trên 300.000 tấn) và chiếm đáng kể về loài so với cả nước (cá chiếm 62%, tôm sú và tôm he 66%, tôm sắt và tôm chì 61%, mực ống 69% và mực nang 76%). Tính theo đầu người, khả năng cá biển có thể khai thác ở ĐBSCL là 61 kg/năm, trong khi cả nước chỉ có 21 kg/năm. Ngoài ra, vùng biển ven bờ của ĐBSCL còn có tiềm năng bảo tồn khá cao, kéo theo khả năng phát triển một số ngành nghề TS mới để chuyển đổi nghề nghiệp cho ngư dân như: nuôi thích nghi, câu hoặc đánh cá giải trí gắn với du lịch sinh thái...
Khu vực ĐBSCL có đội tàu khai thác lớn nhất cả nước, không chỉ về số lượng tàu thuyền, mà cả về công suất tàu và phạm vi ngư trường khai thác cũng lớn nhất so với cả nước. heo số liệu thống kê từ các địa phương vùng ĐBSCL, số lượng tàu thuyền hoạt động khai thác TS trong vùng dao động từ 22.000 – 25.000 chiếc. Trong đó, khai thác xa bờ luôn là thế mạnh của vùng, đặc biệt là ở Kiên Giang với hơn 3.500 tàu tham gia khai thác xa bờ. Vì thế, sản lượng khai thác TS khu vực ĐBSCL có tốc độ tăng nhanh hơn so với các địa phương khác và đóng góp rất lớn trong tổng sản lượng khai thác TS chung của cả nước: Sản lượng từ 803.919 tấn năm 2000 tăng lên 863.289 tấn năm 2008. Bên cạnh đó, ĐBSCL là vùng cho sản lượng khai thác TS nội địa khá cao, thường chiếm tỷ lệ từ 50 – 60% sản lượng khai thác nội địa cả nước. Những địa phương có sản lượng khai thác cao như An Giang (chiếm 33,46%), Trà Vinh (chiếm 18,24%), Đồng Tháp (chiếm 13,52%)...
Đặc biệt, thời gian qua, cùng với việc phát triển nghề cá, nhiều địa phương trong vùng đã đầu tư xây dựng trên 20 cảng cá, bến cá và hàng trăm cơ sở đóng sửa tàu thuyền cùng với các chợ - vựa cá mua bán cá tập trung. Trong đó, một số tỉnh ven biển Tây Nam Bộ đã đặt nền móng cho chiến lược phát triển kinh tế biển. Điển hình như tỉnh Kiên Giang đã kết hợp khai thác, chế biến với nuôi trồng và bảo vệ nguồn lợi TS ven bờ; tập trung đầu tư hình thành các cảng cá, cảng dịch vụ hậu cần nghề cá ở các ngư trường trọng điểm tại quần đảo Nam Du, Kiên Hải, Phú Quốc và Thổ Chu nhằm phục vụ các đoàn tàu đánh cá xa bờ.
Chế biến và xuất khẩu chiếm tỷ trọng cao
Theo Bộ NN&PTNT, toàn vùng ĐBSCL hiện có trên 190 nhà máy chế biến TS với công suất thiết kế trên 1,2 triệu tấn/năm, so với năm 2003 tăng hơn 2,3 lần về số nhà máy, tăng hơn 2,7 lần về công suất. Trong số này, do có sự tập trung nhiều vùng sản xuất nguyên liệu lớn nên 4 địa phương (TP Cần Thơ và các tỉnh Tiền Giang, Kiên Giang, An Giang) chiếm gần 55% số lượng nhà máy chế biến TS toàn vùng. Hằng năm, sản lượng TS chế biến của vùng ĐBSCL khoảng 1 triệu tấn, chiếm gần 70% tổng sản lượng TS chế biến của cả nước. Trong đó, An Giang, Đồng Tháp, Tiền Giang và Cà Mau chiếm hơn 60% tổng sản lượng chế biến của toàn vùng. Ở ĐBSCL, mỗi địa phương đều có những sản phẩm chế biến đặc trưng riêng. Cụ thể như Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng có thế mạnh trong chế biến xuất khẩu tôm; An Giang, Đồng Tháp và TP Cần Thơ có thế mạnh về chế biến cá tra xuất khẩu. Ngoài ra, các tỉnh ven biển khác như Kiên Giang, Bến Tre, Trà Vinh cũng có nhiều sản phẩm chế biến nguồn gốc nổi tiếng từ biển như nước mắm, khô...
Trong số các địa phương, với việc hằng năm đạt trên 625 triệu USD (chiếm trên 20% tổng kim ngạch xuất khẩu TS của toàn vùng), tỉnh Cà Mau luôn dẫn đầu về xuất khẩu TS của cả vùng ĐBSCL. Kế đến là TP Cần Thơ và tỉnh An Giang, hai địa phương có khối lượng cá tra và cá ba sa rất lớn và tăng trưởng nhanh trong những năm gần đây.
Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu TS Việt Nam (VASEP), kim ngạch xuất khẩu của vùng ĐBSCL có sự tăng trưởng đáng khích lệ trong giai đoạn 2003 – 2008, đạt 18,5%/năm (từ 1,2 tỉ USD năm 2003 lên 2,83 tỉ USD trong năm 2008). Sang năm 2009, tình hình suy thoái kinh tế trên thế giới tác động mạnh đến thị trường xuất khẩu nên kim ngạch xuất khẩu khẩu TS của vùng ĐBSCL đạt khoảng 2,55 tỉ USD. Kết quả này góp phần rất lớn trong việc đem về trên 4,25 tỉ USD kim ngạch xuất khẩu TS của cả nước trong năm 2009, đưa sản phẩm TS của Việt Nam có mặt khoảng 165 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới.
Với những lợi thế trên, nhiều năm nay, TS đã trở thành ngành kinh tế mũi nhọn trong phát triển sản xuất nông nghiệp của vùng ĐBSCL. Vì thế phát triển ngành TS ĐBSCL thành một ngành sản xuất hàng hóa lớn, có năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh cao, có cơ cấu sản phẩm đa dạng, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước ngày càng tăng, đồng thời đẩy mạnh xuất khẩu, tiếp tục giữ vững là ngành có kim ngạch xuất khẩu cao và có tỷ trọng GDP đáng kể trong các ngành nông, lâm, ngư nghiệp là một định hướng lớn của vùng ĐBSCL trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng như hiện nay.
Đóng góp của kinh tế TS nói chung và NTTS nói riêng cho sự phát triển kinh tế của vùng ĐBSCL là rất lớn. Theo Tổng cục Thống kê: Năm 2008, GDP toàn vùng ĐBSCL đạt trên 269.000 tỉ đồng, so với năm 2007 là 114.249 tỉ đồng, chiếm 47,8% tổng GDP toàn quốc. Trong đó, nông - lâm - ngư nghiệp chiếm 33,59% tổng GDP toàn vùng; ngành TS chiếm 41% tổng GDP toàn ngành nông, lâm ngư nghiệp vùng ĐBSCL và chiếm khoảng 16% tổng GDP toàn vùng ĐBSCL. Giai đoạn 2000 - 2008, tốc độ tăng trưởng kinh tế vùng ĐBSCL trung bình tăng 13%/năm, cao hơn mức tăng bình quân chung toàn quốc toàn quốc 8,68%/năm. Trong các ngành kinh tế của vùng ĐBSCL, ngành TS có tốc độ tăng trưởng cao nhất ở mức 19,97%/năm, gấp 1,9 lần so với tốc độ tăng bình quân chung toàn vùng ĐBSCL và gấp 1,1 lần so với mức tăng toàn ngành TS toàn quốc.
PHÁT TRIỂN NUÔI TRỒNG THỦY SẢN - Ồ ẠT VÀ THIẾU KIỂM SOÁT
Ngày 15-6-2000, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 09/2000/NQ-CP về một số chủ trương và chính sách chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông lâm nghiệp, thủy sản (TS). Từ đây, phong trào nuôi trồng thủy sản (NTTS) cả nước nói chung và ĐBSCL nói riêng phát triển rất nhanh và cũng bộc lộ sự thiếu sự kiểm soát của các ngành chức năng. Sự phát triển “quá đà” này đã và đang phát sinh nhiều khó khăn, bất cập cộng với những tác động xấu của biến đổi khí hậu đẩy ngành TS ĐBSCL đứng trước nguy cơ phát triển không bền vững, ảnh hưởng lớn đến những lợi thế vốn có đã được khẳng định của ngành này từ nhiều năm nay.
Quy hoạch “hụt hơi” theo đà phát triển
Theo Bộ NN&PTNT, năm 2000, toàn vùng ĐBSCL mới chỉ có 445.300 ha NTTS, với tổng sản lượng 365.141 tấn. Đến cuối năm 2009, diện tích NTTS của cả vùng trên 823.000 ha và sản lượng TS đạt trên 1,9 triệu tấn. Nghề NTTS phát triển nhanh kéo theo sự phát triển ồ ạt về số lượng của cơ sở sản xuất giống, nhà máy chế biến thức ăn, nhà máy chế biến TS... Tuy nhiên, điều đáng quan tâm trong quá trình phát triển này, phần lớn là tự phát, không theo một định hướng hay một kế hoạch, quy hoạch cụ thể nào. Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Lương Lê Phương cho biết: Nhiều năm qua, phát triển TS, đặc biệt là vùng ĐBSCL luôn được sự quan tâm của các ngành, các cấp. Tuy nhiên, giữa phát triển và quy hoạch ngành TS chưa thật sự tương xứng; quy hoạch chưa theo kịp tốc độ phát triển ồ ạt về sản lượng nuôi trồng lẫn xuất khẩu của các đối tượng TS.
Từ năm 1995 đến nay, chính phủ, các bộ ngành Trung ương... đã ban hành hàng trăm văn bản, chính sách liên quan đến phát triển NTTS. Nhưng nội dung của các văn bản, chính sách này chủ yếu xoay quanh các vấn đề như: chuyển dịch cơ cấu kinh tế; khuyến khích phát triển giống TS; phát triển NTTS trên biển, hải đảo; hỗ trợ đầu tư, tín dụng; chính sách về đất đai, thuế, khuyến ngư... Mãi đến năm 2001, bản quy hoạch phát triển NTTS vùng ĐBSCL đến năm 2010 mới được xây dựng. Do triển khai sau khi có Nghị quyết 09/2000/NQ-CP về một số chủ trương và chính sách chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông lâm nghiệp, TS nên quy hoạch ngành TS ĐBSCL vừa nêu dù chưa ban hành nhưng cần thiết phải điều chỉnh bổ sung cho phù hợp...
Ngày 11-1-2006, Thủ tướng Chính phủ ký ban hành Quyết định số 10/2006/QĐ-TTg về phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển ngành TS đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020. Theo đó, ĐBSCL phát triển NTTS trên tất cả các loại mặt nước, đặc biệt nuôi tôm, cá tra, ba sa, sò huyết, nghêu và một số loài cá biển; củng cố và nâng cấp đội tàu đánh bắt xa bờ hiện có; nâng cấp các nhà máy chế biến hiện có và phát triển thêm một số nhà máy; hình thành các trung tâm hậu cần dịch vụ nghề cá ở vùng ven biển và trong nội đồng. Tiếp sau đó, Bộ trưởng Bộ TS (trước đây) ra Quyết định số 395/QĐ-BTS ngày 10-5-2006, giao cho Viện Kinh tế và Quy hoạch TS xây dựng Quy hoạch phát triển NTTS ĐBSCL đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020 trên phạm vi 13 tỉnh, thành phố trong vùng, nhằm đánh giá một cách xác thực, khách quan về các điều kiện phát triển; phân tích những tồn tại, hạn chế trong giai đoạn vừa qua, làm cơ sở để quy hoạch phát triển đến năm 2015, định hướng đến năm 2020, hướng nghề NTTS vùng ĐBSCL phát triển ổn định, bền vững. Dù cuối năm 2009, Viện Kinh tế và Quy hoạch TS đã cơ bản hoàn tất những nội dung vừa nêu, nhưng đến nay quy hoạch mang tính định hướng cho phát triển TS ĐBSCL vẫn chưa chính thức công bố đến các địa phương trong vùng.
Đối với các quy hoạch chuyên ngành khác như quy hoạch về thủy lợi, về con giống, cá tra, cá ba sa... cho cả vùng cũng đã được xây dựng và công bố. Tuy nhiên, theo nhận định của các ngành hữu quan, các quy hoạch này hoặc là “lội nước theo sau”, hoặc đã quá lạc hậu so với sự phát triển tương ứng của ngành TS.
Tôm chết, tỷ lệ cá tra hao hụt tăng cao
Con tôm sú và cá tra là hai đối tượng TS được nuôi chủ lực ở ĐBSCL. Tuy nhiên, nhiều năm nay, tôm chết, tỷ lệ cá tra nuôi bị hao hụt ngày càng cao. Những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng này chính là việc sản xuất và cung ứng con giống ở vùng ĐBSCL nhiều năm nay bị thả nổi trong quản lý khiến tình trạng con giống chưa qua kiểm dịch, con giống kém chất lượng được mua bán tự phát, tràn lan...
Đối với con tôm sú, theo các ngành chức năng, thời gian gần đây, sản xuất giống đã cơ bản đáp ứng nhu cầu của người nuôi, không xảy ra tình trạng sốt giống như trước, việc mua giống trôi nổi đã giảm hẳn. Tuy nhiên, một số bất cập trong công tác quản lý như phí kiểm dịch quá cao, cơ quan kiểm dịch chưa ổn định... nên tình trạng tôm giống chưa qua kiểm dịch vẫn còn nhiều trên thị trường. Điều đáng quan tâm là tình trạng tôm sú giống mang mầm bệnh, chủ yếu là tôm giống chưa qua kiểm dịch đang có chiều hướng bùng phát không kiểm soát được. Điển hình, trung tuần tháng 3-2010, ngành chức năng Cà Mau kiểm tra ngẫu nhiên 10 mẫu tôm giống trên địa bàn tỉnh. Kết quả, 10/10 mẫu đều nhiễm bệnh đốm trắng. Ông Trần Minh Trường, người nuôi tôm huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau, bức xúc: Khi tôm chết, nhiều chủ vuông không xử lý mầm bệnh trước khi bơm nước ra môi trường khiến các vuông khác cũng bị nhiễm bệnh và tình hình ngày càng nghiêm trọng hơn khi diện tích lây lan trên diện rộng. Đây là thực trạng chung ở các vùng tôm ĐBSCL nhiều năm nay nhưng các cơ quan chức năng vẫn chưa có biện pháp xử lý hữu hiệu. Theo Bộ NN&PTNT, chỉ tính đến cuối tháng 4-2010, đã có hiện tượng tôm chết trên diện tích khoảng 40.000 ha nuôi tôm ở ĐBSCL với mức độ thiệt hại từ 20% đến 80%, nhiều nhất tại các tỉnh Kiên Giang, Cà Mau, Trà Vinh, Bạc Liêu, Sóc Trăng...
Về giống con cá tra, ông Nguyễn Ngọc Hải, Chủ nhiệm HTX nuôi cá tra xuất khẩu Thới An, quận Ô Môn, TP Cần Thơ, cho biết: Từ năm 2000 trở lại đây, tình hình cá tra thả nuôi bị chết diễn biến hết sức phức tạp, nhất là cá trong giai đoạn 2 - 3 tháng tuổi. Có lúc tỷ lệ cá chết lên đến 50%. Ngoài tác động của môi trường nuôi ngày càng xấu đi, thì chất lượng giống là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tỷ lệ hao hụt cá ngày càng gia tăng. Theo ông Hải, chính sự suy thoái nội tại mới dẫn đến tình trạng cá tra dễ bị sốc trước biến đổi của môi trường, cá dễ bị nhiễm bệnh và không còn khả năng điều trị...
Theo Cục NTTS, Bộ NN&PTNT, trước đây, cá tra bố mẹ lấy từ môi trường tự nhiên nuôi từ 2,5 - 3 năm tuổi, trọng lượng 4 - 5 kg mới bắt đầu thành thục. Nhưng nay, cá nuôi mới 5 - 6 tháng tuổi, trọng lượng đã thành thục. Để giảm chi phí mà vẫn thu được sản lượng cá bột cao, nhiều trại giống đã giảm khối lượng đàn cá bố mẹ, giảm sản lượng thức ăn nuôi dưỡng nhưng lạm dụng kích dục tố tăng cường độ sinh sản 5 - 6 lứa/năm nên chất lượng cá bột rất thấp. Trong khi đó, đến cuối năm 2009, toàn vùng có khoảng 4.000 cơ sở ương nuôi cá giống, nhưng chỉ có 1/4 số cơ sở này có đăng ký kinh doanh và sản xuất thường xuyên. Còn lại hầu hết các cơ sở quy mô nhỏ, sản xuất không ổn định, khi nào giá cá giống cao thì hoạt động, khi giá cá giống thấp thì ngưng. Những cơ sở này điều kiện ao ương không đảm bảo, sử dụng thức ăn tự chế với những loại tươi sống làm nước nhanh dơ, nguồn nước bị động không được thay thường xuyên nên ô nhiễm, tiềm ẩn các loại bệnh và ký sinh trùng. Trong khi nguồn cá bột chất lượng thấp, lại được ương trong điều kiện môi trường không đảm bảo nên hao hụt rất lớn, tỷ lệ sống chỉ đạt 15 - 20%, thậm chí có đợt chỉ 2 - 3%.
Tác động xấu của biến đổi khí hậu
Theo kịch bản về nước biển dâng được Bộ Tài nguyên và Môi trường công bố, ĐBSCL là nơi chịu ảnh hưởng nặng nề nhất. Nếu mực nước biển dâng thêm 1m thì khoảng 31% diện tích của khu vực ĐBSCL sẽ bị ảnh hưởng hoặc ngập. Đồng thời, đây cũng là nơi chịu hậu quả lớn của tiến trình xói lở, xâm nhập mặn và ảnh hưởng đến đời sống, nơi cư trú của hàng triệu người, đảo lộn sự phát triển kinh tế xã hội toàn vùng. Theo các ngành chuyên môn, có nhiều nguyên nhân gây biến đổi khí hậu và ngành TS được xác nhận là ít đóng góp nhất vào việc thúc đẩy sự biến đổi này. Nhưng ngược lại, TS lại là một trong những ngành chịu thiệt hại nhiều nhất: suy giảm năng suất, bùng nổ dịch bệnh, mất dần một phần hoặc toàn bộ diện tích NTTS... Ngoài ra, theo Thạc sĩ Thân Thị Hiền, Trung tâm Bảo tồn sinh vật biển và Phát triển cộng đồng: Nhiệt độ tăng làm tăng quá trình phân hủy chất hữu cơ trong nước và có thể dẫn đến nguồn nước bị ô nhiễm, nguy cơ mắc bệnh của các loài TS lại càng cao. Bên cạnh đó, ảnh hưởng trực tiếp từ việc giảm mưa trong mùa khô, đồng thời cùng với sự tăng nhiệt độ không khí sẽ làm tăng lượng bốc hơi nước tại các khu vực NTTS sẽ làm tăng độ mặn. Điều này đòi hỏi phải bơm thêm nước ngọt vào các khu vực NTTS trong mùa khô để ổn định độ mặn và sẽ dẫn đến cạnh tranh trong việc sử dụng nước ngọt ở các lĩnh vực nông nghiệp khác như trồng lúa nước và hoa màu.
Tiến sĩ Nguyễn Thanh Tùng, Phó Viện trưởng Viện Kinh tế và Quy hoạch TS, dự báo: Những tác động tiếp theo của biến đổi khí hậu sẽ phá vỡ các hệ sinh thái rừng ngập mặn, vùng đất ngập nước hay khu vực sinh sản của động vật thủy sinh, thay đổi ngư trường, giảm trữ lượng và mức độ tập trung của các đàn cá lớn. Sự axít hóa môi trường nước biển làm giảm khả năng tích lũy canxi tạo vỏ của các loài nhuyễn thể; hiện tượng mưa axít ảnh hưởng đến TS nuôi trồng. Ngoài ra, các tác động gián tiếp của biến đổi khí hậu có thể khiến nguồn cung thức ăn NTTS sẽ khó khăn hơn và giá sẽ cao hơn. Các nguồn vốn đầu tư cũng có thể được hướng vào các ưu tiên khác cao hơn so với nghề cá... Vì vậy, đòi hỏi một kịch bản cho việc ứng phó với biến đổi khí hậu cho vùng ĐBSCL cần được nhanh chóng tiến hành xây dựng.
Bên cạnh những vấn đề được xem là nổi cộm nhất, quá trình phát triển của TS ĐBSCL còn phải đối mặt với nhiều thách thức như: phương tiện kỹ thuật đánh bắt xa bờ quy mô nhỏ và lạc hậu; hậu cần, cơ sở hạ tầng phục vụ ngành TS còn thiếu đồng bộ; ứng dụng công nghệ sinh học trong NTTS với mục tiêu tăng trưởng nhanh, chất lượng cao, chủ động phòng trị dịch bệnh còn nhiều hạn chế... Đặc biệt, trên thực tế, nội tại của tất cả các vấn đề trên, cộng với những tác động mang tính chất hệ lụy của những bất cập trong quá trình phát triển đã và đang khiến ngành TS ĐBSCL đứng trước nguy cơ phát triển không bền vững. Cá tra, và tôm sú, hai đối tượng sản xuất và xuất khẩu chủ lực của TS ĐBSCL là một minh chứng cụ thể nhất.
Áp lực dân số và hậu quả của chiến tranh đã thúc đẩy nhanh sự suy thoái, sự xáo trộn và phá hoại các hệ sinh thái tự nhiên của ĐBSCL. Diện tích rừng ngập mặn đã và đang suy giảm nghiêm trọng do các hoạt động chuyển đổi diện tích rừng sang sản xuất nông nghiệp - TS, do xói lở bờ biển... Điều này có thể dẫn đến mất dần các bãi sinh sản tự nhiên của nhiều loài sinh vật, cạn kiệt nguồn lợi TS tự nhiên. Sự mâu thuẫn lợi ích giữa các ngành nông nghiệp và các ngành khác đối với ngành TS, ví dụ như quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa, du lịch gây ô nhiễm... làm mất dần diện tích thuận lợi cho việc phát triển nuôi TS. Năng suất nuôi tôm quảng canh trong rừng ngập mặn bị giảm sút từ khoảng 200 kg/ha/vụ (năm 1980) đến nay chỉ còn 80 kg/ha/vụ. Rừng ngập mặn trước đây có thể khai thác được 800 kg thủy sản/ha, nay chỉ thu được 1/20 so với trước. Đã có khoảng 100 loài hải sản có mức độ nguy cấp khác nhau và trên 75 loài đã được đưa vào Sách Đỏ Việt Nam. Nguồn lợi TS vùng biển ven bờ và nước ngọt bị khai thác quá giới hạn cho phép do tăng nhanh số lượng tàu thuyền đánh cá nhỏ. Nguồn lợi TS có xu hướng giảm dần về trữ lượng, sản lượng và kích thước cá đánh bắt... - Tiến sĩ Nguyễn Thanh Tùng, Phó Viện trưởng Viện Kinh tế và Quy hoạch TS cho biết.
MINH LÊ
- Kỹ thuật nuôi tôm, nuôi cá, phòng trị bệnh tôm, cá và các loại thủy sản khác
Các tin mới
Các tin năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009 | 2008 | 2007: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 61 62 63 64 65 66 67 68 69 70 71 72 73 74 75 76 77 78 79 80 81 82 83 84 85 86 87 88 89 90 91 92 93 94 95 96 97 98 99 100 101 102 103 104 105 106 107 108 109 110 111 112 113 114 115 116 117 118 119 120 121 122 123 124 125 126 127 128 129 130 131 132 133 134 135 136 137 138 139 140 141 142 143 144 145 146 147 148 149 150 151 152 153 154 155 156 157 158 159 160 161 162 163 164 165 166 167 168 169 170 171 172 173 174 175 176 177 178 179 180 181 182 183 184 185 186 187 188 189 190 191 192 193 194 195 196 197 198 199 200 201 202 203 204 205 206 207 208 209 210 211 212 213 214 215 216 217 218 219 220 221 222 223 224 225 226 227 228 229 230 231 232 233 234 235 236 237 238 239 240 241 242 243 244 245 246 247 248 249 250 251 252 253 254 255 256 257 258 259 260 261 262 263 264 265 266 267 268 269 270 271 272 273 274 275 276 277 278 279 280 281 282 283 284 285 286 287 288 289 290 291 292 293 294 295 296 297 298 299 300 301 302 303 304 305 306 307 308 309 310 311 312 313 314 315 316 317 318 319 320 321 322 323 324 325 326 327 328 329 330 331 332 333 334 335 336 337 338 339 340 341 342 343 344 345 346 347 348 349 350 351 352 353 354 355 356 357 358 359 360 361 362 363 364 365 366 367 368 369 370 371 372 373 374 375 376 377 378 379 380 381 382 383 384 385 386 387 388 389 390 391 392 393 394 395 396 397 398 399 400 401 402 403 404 405 406 407 408 409 410 411 412 413 414 415 416 417 418 419 420 421 422 423 424 425 426 427 428 429 430 431 432 433 434 435 436 437 438 439 440 441 442 443 444 445 446 447 448 449 450 451 452 453 454 455 456 457 458 459 460 461 462 463 464 465 466 467 468 469 470 471 472 473 474 475 476 477 478 479 480 481 482 483 484 485 486 487 488 489 490 491 492 493 494 495 496 497 498 499 500 501 502 503 504 505 506 507 508 509 510 511 512 513 514 515 516 517 518 519 520 521 522 523 524 525 526 527 528 529 530 531 532 533 534 535 536 537 538 539 540 541 542 543 544 545 546 547 548 549 550 551 552 553 554 555 556 557 558 559 560 561 562 563 564 565 566 567 568 569 570 571 572 573 574 575 576 577 578 579 580 581 582 583 584 585 586 587 588 589 590 591 592 593 594 595 596 597 598 599 600 601 602 603 604 605 606 607 608 609 610 611 612 613 614 615 616 617 618 619 620 621 622 623 624 625 626 627 628 629 630 631 632 633 634 635 636 637 638 639 640 641 642 643 644 645 646 647 648 649 650 651 652 653 654 655 656 657 658 659 660 661 662 663 664 665 666 667 668 669 670 671 672 673 674 675 676 677 678 679 680 681 682 683 684 685 686 687 688 689 690 691 692 693 694 695 696 697 698 699 700 701 702 703 704 705 706 707 708 709 710 711 712 713 714 715 716 717 718 719 720 721 722 723 724 725 726 727 728 729 730 731 732 733 734 735 736 737 738 739 740 741 742 743 744 745 746 747 748 749 750 751 752 753 754 755 756 757 758 759 760 761 762 763 764 765 766 767 768 769 770 771 772 773 774 775 776 777 778 779 780 781 782 783 784 785 786 787 788 789 790 791 792 793 794 795 796 797 798 799 800 801 802 803 804 805 806 807 808 809 810 811 812 813 814 815 816 817 818 819 820 821 822 823 824 825 826 827 828 829 830 831 832 833 834 835 836 837 838 839 840 841 842 843 844 845 846 847 848 849 850 851 852 853 854 855 856 857 858 859 860 861 862 863 864 865 866 867 868 869 870 871 872 873 874 875 876 877 878 879 880 881 882 883 884 885 886 887
Bệnh phân trắng không làm tôm chết nhanh và chết hàng loạt như bệnh đốm trắng hay bệnh gan tụy cấp, nhưng nếu không khống chế sẽ gây ra những thiệt hại to lớn cho người nuôi tôm...
Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.