Nguồn tin: Báo Cần Thơ, 20/07/2010
Ngày cập nhật:
22/7/2010
BÀI HỌC ĐẮT GIÁ TỪ CON CÁ TRA VÀ TÔM SÚ
Từ năm 2006, khủng hoảng thừa của con cá tra ở ĐBSCL đã để lại những “dư chấn” nặng nề: hàng ngàn người nuôi cá bị lỗ lã lên đến hàng trăm tỉ đồng. Rồi chuyện thiếu tôm sú nguyên liệu cho chế biến gần đây đẩy nhiều nhà máy chế biến xuất khẩu ở nhiều địa phương trong vùng chỉ hoạt động cầm chừng, ảnh hưởng lớn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh. Ngoài ra, tình trạng ô nhiễm từ việc nuôi trồng thủy sản (NTTS), từ các nhà máy chế biến xuất khẩu thủy sản (TS)… đã và đang ở mức báo động, ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nước, đến đời sống của người dân...
CUNG – CẦU: ĐIỆP KHÚC MẤT CÂN ĐỐI!
Đầu tiên phải kể đến đó là con cá tra nguyên liệu. Sự phát triển mạnh mẽ và những đồng USD xuất khẩu của loài TS nuôi này đem về cho đất nước được xem là một kỳ tích. Năm 2008, chỉ với 6.160 ha nuôi cá tra đã đạt sản lượng xuất khẩu gần 640.830 tấn và kim ngạch xuất khẩu đạt 1,453 tỉ USD, chiếm 32,2% tổng giá trị xuất khẩu TS của cả nước và đóng góp khoảng 2% GDP của cả nước. Thị trường tiêu thụ cá tra đã được mở rộng trên 130 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Ông Nguyễn Hữu Dũng, Phó Chủ tịch Thường trực Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu TS Việt Nam (VASEP), cho biết: Do tốc độ phát triển chóng mặt nhưng thiếu quy hoạch, khiến công tác dự báo sản lượng và giải pháp kiểm soát sự gia tăng diện tích và sản lượng nuôi cá tra còn nhiều yếu kém. Sự sản xuất tùy tiện và chủ yếu theo tín hiệu giá của thị trường; khi giá tăng thì đầu tư sản xuất, khi giá giảm thì bỏ trống ao, dẫn đến tình trạng thừa, thiếu nguyên liệu phục vụ cho chế biến xuất khẩu và tính ổn định trong sản xuất. Cuộc khủng hoảng thừa của con cá tra năm 2006 kéo dài đến năm 2009 là một ví dụ. Hàng ngàn tấn cá tra thừa mứa, quá lứa không có doanh nghiệp chế biến TS xuất khẩu mua, hàng trăm người nuôi cá tra ở ĐBSCL lỗ lã hàng ngàn tỉ đồng khiến không thể đầu tư tái sản xuất.
Từ cuối năm 2009 đến nay, giá tôm sú nguyên liệu tăng cao. Cụ thể, những tháng cuối năm 2009, tôm sú nguyên liệu loại 20 con/kg có giá 150.000 đồng/kg, loại 30 con/kg là 110.000 - 120.000 đồng/kg, loại 40 con có giá 90.000 đồng/kg. Đến cuối tháng 6-2010, giá tôm sú nguyên liệu ở ĐBSCL như sau: tôm loại 20 con/kg giá 183.000 - 190.000 đồng/kg; loại 30 con/kg từ 143.000 – 150.000 đồng/kg, tôm 40 con/kg giá dao động trên dưới 120.000 đồng/kg. Theo VASEP, song song với giá nguyên liệu tăng, hiện nay, nhu cầu nhập khẩu tăng cao, đặc biệt là thị trường Mỹ, giá xuất khẩu tôm đông lạnh tăng khoảng 30% so với năm 2009. Cụ thể, đối với tôm sú loại 16 - 20 con/kg hiện đã lên mức 12,9 - 13,2 USD/kg, loại 13 - 15 con/kg tăng lên 16,6 - 17 USD/kg, đây là mức tăng cao nhất trong 10 năm trở lại đây. Tuy nhiên, nhiều nhà máy chế biến xuất khẩu ở ĐBSCL đã và đang “khóc ròng”, chỉ hoạt động từ 45 - 50% công suất vì thiếu hoặc phải nhập nguồn nguyên liệu với giá cao.
RỐI LOẠN THỊ TRƯỜNG
Trước đây, tại các cuộc họp bàn giải pháp để cứu nguy cho con cá tra nguyên liệu vượt qua thời khủng hoảng, ông Lương Hoàng Mãnh, Giám đốc Công ty cổ phần TS Mekong, TP Cần Thơ, bày tỏ: “Chúng ta phát triển nhưng quên mất bài học lạnh lùng từ sự tự điều tiết của thị trường. Khi cung nhiều thì giá giảm, khi cầu nhiều thì giá tăng thôi!”. Đối với con cá tra, thực tế xảy ra nhiều năm nay là một minh chứng: Khi giá cá lên, ai cũng ùn ùn nuôi cá dù có trình độ, kỹ thuật nuôi hay không, nhiều lúc còn “neo” cá để chờ mức lợi nhuận cao hơn. Khi giá cá giảm thì “bán tháo, bán đổ” làm đảo lộn cả thị trường. Thậm chí, cầu cứu sự can thiệp của Nhà nước. Còn các nhà máy chế biến thì đua nhau mọc lên, đua nhau chào giá bán sản phẩm ra nước ngoài khiến rối ren cả thị trường trong và ngoài nước... Ngoài ra, gần như có một tiền lệ xảy ra, sau mỗi lần hội chợ TS quốc tế, các doanh nghiệp xuất khẩu TS Việt Nam không có được tiếng nói chung, mạnh ai nấy chào giá. Điều đáng nói ở đây, việc xảy ra thành tiền lệ như vậy nhưng chưa có một cơ quan nào đứng ra nhận trách nhiệm và chưa có một đơn vị nào bị xử lý về hành vi phá giá. Điều này, vừa làm sụt giảm uy tín chất, lượng sản phẩm TS của Việt Nam trên thị trường quốc tế, vừa thiệt hại lớn đến lợi ích kinh tế.
Điển hình như chuyện hạ giá bán cá tra phi lê xuất khẩu của Việt Nam ở các thị trường nhập khẩu. Theo thống kê của VASEP, đầu năm 2008 so với năm 2007, cá tra phi lê của Việt Nam bị hạ giá ở tất cả các thị trường. Trong đó, giảm nhiều nhất là ở thị trường Trung Đông với mức độ 20,58%, kế tiếp thị trường châu Á 10,95%, Đông Âu 10,8%, Nam Mỹ 8,62%, châu Âu 7,01%, châu Đại Dương 4,94%, châu Phi 2,8%, giảm ít nhất ở thị trường nước Mỹ 1,34%. Riêng từ quý I/2010, giá cá tra phi lê đã rớt đến 23% so với cùng kỳ năm 2009; đáng chú ý nhất là thị trường Ukraina giảm trên 55%. Trong khi đó, theo dẫn chứng của VASEP: Từ thống kê nhập khẩu của Hải quan Mỹ, tỉ trọng sản lượng cá tra Việt Nam so với các nước không ngừng tăng, từ chỉ chiếm 63% quí I/2008 tăng lên 75% vào quí I/2010.
NGƯỜI NUÔI ĐUỐI SỨC
Nghề nuôi cá tra đã phát triển gần 15 năm nay. Tuy nhiên, theo VASEP, sự thịnh vượng của đối tượng này bắt đầu từ năm 2003 đến đầu quý I/2008. Nhưng nếu nhìn nhận một cách có hệ thống, tỉ suất lợi nhuận nuôi cá tra của người dân đang trên đà giảm dần. Năm 2003, giá bán trung bình của con cá tra nguyên liệu là 7.000 đồng/kg, giá thành sản xuất khoảng 4.500 đồng/kg. Hai mức giá này tương ứng ở năm 2005 là 10.000 đồng/kg và 8.000 đồng/kg; năm 2007 là 13.500 – 14.000 đồng/kg và 12.000 – 13.000 đồng/kg... Đến tháng 6-2010, giá con cá tra nguyên liệu trung bình trên thị trường là 15.500 - 16.200 đồng/kg nhưng giá thành sản xuất đã ở mức trên dưới 16.000 đồng/kg. Chính vì thế, hiện nay, diện tích nuôi cá tra đang giảm ở nhiều địa phương vùng ĐBSCL. Ví dụ như diện tích nuôi cá tra đến đầu tháng 6–2010, TP Cần Thơ giảm gần 60% so với cùng kỳ năm 2009; tỉnh Đồng Tháp chỉ bằng 50% kế hoạch...
Với con tôm, khi giá xuất khẩu đang đứng ở mức cao nhất trong vòng 10 năm trở lại đây, người nuôi có được hưởng lợi? Ông Võ Hồng Ngoãn, người nuôi tôm ở xã Vĩnh Trạch Đông, thị xã Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu, cho rằng: Dịch bệnh, tỷ lệ tôm chết ngày càng nhiều, giá thức ăn tăng cao, lãi suất tăng cao, ngân hàng không còn “mặn” chuyện cho vay nuôi tôm... khiến tôm nuôi giảm sản lượng, người nuôi tôm ở ĐBSCL lỗ lã, nhiều diện tích nuôi tôm được chuyển sang đối tượng TS khác. Như vậy, người nuôi tôm vẫn chưa được hưởng lợi thật sự.
Ngoài những vấn đề nêu trên, bà Lê Thị Đào, người nuôi cá tra ở xã Thới Thuận, quận Thốt Nốt, TP Cần Thơ, nói: Gà, vịt mắc bệnh cúm gia cầm, trâu, bò mắc bệnh lở mồm long móng... đều có sự hỗ trợ từ Nhà nước. Tuy nhiên, đối với con cá tra hay các đối tượng TS bị thiên tai, dịch bệnh... chưa được hỗ trợ từ phía các cơ quan hữu quan. Đã vậy, tình trạng ô nhiễm môi trường nước từ hoạt động NTTS hay các hoạt động khác đẩy người nuôi TS đứng trước những thách thức không nhỏ.
Theo Bộ NN&PTNT, hằng năm các nguồn chất thải do NTTS ở ĐBSCL thải ra khoảng 500 triệu m3 bùn thải và chất thải. Nguồn chất thải độc hại này hiện nay vẫn chưa được xử lý triệt để và thải vào sông rạch trong khu vực. Các chất thải NTTS là nguồn thức ăn dư thừa thối rữa bị phân hủy, các chất tồn dư sử dụng như hóa chất và thuốc kháng sinh, vôi và các loại khoáng chất. Chất thải ao nuôi công nghiệp có thể chứa đến trên 45% Nitrogen và 22% là các chất hữu cơ khác, là nguồn có thể gây ô nhiễm môi trường và dịch bệnh TS phát sinh trong môi trường nước. Mất cân bằng sinh thái trong NTTS thể hiện rõ nét ở tình trạng phát sinh dịch bệnh trên diện rộng do ô nhiễm môi trường ở các mô hình nuôi tôm sú, thâm canh cá tra... làm tổn thất kinh tế rất lớn. Môi trường nước trên sông Tiền, sông Hậu và các kênh rạch vùng ngọt hóa đã có dấu hiệu nhiễm bẩn hữu cơ. Ngoài hoạt động NTTS, theo Chi cục Bảo vệ môi trường Tây Nam Bộ, các ngành kinh tế khác cũng đang làm cho môi trường ĐBSCL bị đe dọa nghiêm trọng. Hằng năm các nhà máy, doanh nghiệp ở ĐBSCL thải ra môi trường khoảng 47,2 triệu m3 nước thải công nghiệp, 220.000 tấn rác thải công nghiệp. Ngoài ra các hoạt động sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt của con người cũng “đóng góp” khoảng 780.000 tấn chất thải rắn sinh hoạt, 500.000 tấn thuốc bảo vệ thực vật và hơn 2 triệu tấn phân bón.
Những con số “biết nói” này đã minh chứng cho môi trường NTTS cũng như môi trường nước nói chung đang bị đe dọa một cách nghiêm trọng cho sự phát triển bền vững của ngành TS ĐBSCL.
LIÊN KẾT, GIẢM GIÁ THÀNH: GỠ KHÓ?
Năm 2002, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 80/2002/QĐ-TTg về chính sách khuyến khích tiêu thụ nông sản hàng hóa thông qua hợp đồng. Đây được xem là một hướng giải quyết cho tình trạng giá cả bấp bênh của hàng hóa nông sản. Qua hơn 8 năm thực hiện quyết định này, Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Lương Lê Phương, đúc kết: Đối với mô hình liên kết chỉ cần “2 nhà” là nhà nông và doanh nghiệp, trong đó doanh nghiệp phải chủ động hợp tác cùng nông dân; nhà khoa học và nhà quản lý hỗ trợ để mối liên kết này ngày càng bền chặt. Thực tế này được chứng minh tại HTX nuôi cá tra xuất khẩu Thới An, TP Cần Thơ. Ông Nguyễn Ngọc Hải, Chủ nhiệm HTX Thới An, cho biết: Năm 2008, HTX thực hiện ký kết hợp đồng tiêu thụ cá tra nguyên liệu với Công ty TNHH Hùng Vương (Đồng Tháp) với hình thức khoán 2.600 đồng/kg cá thương phẩm cho các chi phí: con giống, thức ăn, thuốc thú y, công lao động và vận chuyển. Ngoài ra, công ty còn đầu tư 1,7 kg thức ăn trong 1 kg cá tra thương phẩm. Nhờ hình thức liên kết này, trong năm 2008, 2009 vừa qua, khi người nuôi cá tra ở ĐBSCL lâm vào cảnh nợ nần, treo ao thì nuôi cá tra của HTX đạt lợi nhuận tương ứng là 160 tỉ đồng và 300 tỉ đồng. Ông Nguyễn Ngọc Hải chia sẻ: “Với mô hình liên kết này, sản phẩm được đảm bảo đầu ra, giảm chi phí đáng kể do thức ăn, cá tra thương phẩm được “mua tận gốc, bán tận ngọn”. Nhờ đó, Ban Chủ nhiệm cũng như xã viên HTX dành nhiều thời gian cho việc quan hệ với nhà khoa học, Nhà nước, nhà băng (ngân hàng)... tìm các điều kiện tốt nhất để nâng cao chất lượng sản phẩm”.
So với các đối tượng khác, con tôm sú đã và đang chịu nhiều áp lực về vấn đề chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm và bài toán hạ giá thành để nâng cao sức cạnh tranh. Trong bối cảnh này, mô hình nuôi tôm sinh thái, kết hợp thả thưa (7 - 9 con/m2) của ông Võ Hồng Ngoãn (Sáu Ngoãn ở ấp Biển Đông A, xã Vĩnh Trạch Đông, thị xã Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu đang tỏ ra khá thành công. Ông Sáu Ngoãn chia sẻ: Thả tôm nuôi mật độ thưa kết hợp dùng thức ăn tự nhiên, vừa vốn ít, vừa hạn chế được dịch bệnh, hạn chế việc dùng thuốc kháng sinh, hạn chế ô nhiễm môi trường; đặc biệt, giảm thiểu chi phí sản xuất. Với cách thức này, tôm nuôi thương phẩm của ông Ngoãn được nhiều công ty ở các nước EU, Nhật Bản thu mua giá cao hơn thị trường từ 15 - 30% và mô hình nuôi tôm của ông được Cục Sở hữu trí tuệ Bộ Khoa học - Công nghệ cấp chứng nhận “Tôm sú sạch Sáu Ngoãn Việt Nam” đầu tiên ở ĐBSCL.
Từ năm 2006, Cục Thú y và Kiểm dịch động thực vật Liên bang Nga (VPSS) đã kiểm tra trực tiếp đối với sản phẩm TS và các doanh nghiệp chỉ được phép xuất khẩu vào thị trường này dựa trên công suất thực tế của nhà máy, tức là không được phép đưa sản phẩm làm gia công ở các cơ sở chế biến bên ngoài vào để xuất khẩu. Chỉ có các công ty và tàu cá được VPSS công nhận mới được phép xuất khẩu thủy sản vào thị trường Nga.
Với thị trường EU, tất cả các lô hàng hải sản muốn vào được đều phải chứng minh nguồn gốc, sản phẩm phải có giấy chứng nhận về tính hợp pháp. Cục Thanh tra và Kiểm dịch Australia (AQIS) có quyết định tiến hành kiểm tra nghiêm ngặt dư lượng malachite green trong TS nuôi nhập khẩu. Theo đó, tất cả TS nuôi sẽ được lấy mẫu, kiểm tra malachite green và leucomalachite green với tỷ lệ kiểm tra là 5%. Danh sách các nhà phân tích được chỉ định sẽ được cập nhật thường xuyên và các doanh nghiệp có thể tìm trên trang web của AQIS...
MINH LÊ
- Kỹ thuật nuôi tôm, nuôi cá, phòng trị bệnh tôm, cá và các loại thủy sản khác
Các tin mới
Các tin năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009 | 2008 | 2007:
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
38
39
40
41
42
43
44
45
46
47
48
49
50
51
52
53
54
55
56
57
58
59
60
61
62
63
64
65
66
67
68
69
70
71
72
73
74
75
76
77
78
79
80
81
82
83
84
85
86
87
88
89
90
91
92
93
94
95
96
97
98
99
100
101
102
103
104
105
106
107
108
109
110
111
112
113
114
115
116
117
118
119
120
121
122
123
124
125
126
127
128
129
130
131
132
133
134
135
136
137
138
139
140
141
142
143
144
145
146
147
148
149
150
151
152
153
154
155
156
157
158
159
160
161
162
163
164
165
166
167
168
169
170
171
172
173
174
175
176
177
178
179
180
181
182
183
184
185
186
187
188
189
190
191
192
193
194
195
196
197
198
199
200
201
202
203
204
205
206
207
208
209
210
211
212
213
214
215
216
217
218
219
220
221
222
223
224
225
226
227
228
229
230
231
232
233
234
235
236
237
238
239
240
241
242
243
244
245
246
247
248
249
250
251
252
253
254
255
256
257
258
259
260
261
262
263
264
265
266
267
268
269
270
271
272
273
274
275
276
277
278
279
280
281
282
283
284
285
286
287
288
289
290
291
292
293
294
295
296
297
298
299
300
301
302
303
304
305
306
307
308
309
310
311
312
313
314
315
316
317
318
319
320
321
322
323
324
325
326
327
328
329
330
331
332
333
334
335
336
337
338
339
340
341
342
343
344
345
346
347
348
349
350
351
352
353
354
355
356
357
358
359
360
361
362
363
364
365
366
367
368
369
370
371
372
373
374
375
376
377
378
379
380
381
382
383
384
385
386
387
388
389
390
391
392
393
394
395
396
397
398
399
400
401
402
403
404
405
406
407
408
409
410
411
412
413
414
415
416
417
418
419
420
421
422
423
424
425
426
427
428
429
430
431
432
433
434
435
436
437
438
439
440
441
442
443
444
445
446
447
448
449
450
451
452
453
454
455
456
457
458
459
460
461
462
463
464
465
466
467
468
469
470
471
472
473
474
475
476
477
478
479
480
481
482
483
484
485
486
487
488
489
490
491
492
493
494
495
496
497
498
499
500
501
502
503
504
505
506
507
508
509
510
511
512
513
514
515
516
517
518
519
520
521
522
523
524
525
526
527
528
529
530
531
532
533
534
535
536
537
538
539
540
541
542
543
544
545
546
547
548
549
550
551
552
553
554
555
556
557
558
559
560
561
562
563
564
565
566
567
568
569
570
571
572
573
574
575
576
577
578
579
580
581
582
583
584
585
586
587
588
589
590
591
592
593
594
595
596
597
598
599
600
601
602
603
604
605
606
607
608
609
610
611
612
613
614
615
616
617
618
619
620
621
622
623
624
625
626
627
628
629
630
631
632
633
634
635
636
637
638
639
640
641
642
643
644
645
646
647
648
649
650
651
652
653
654
655
656
657
658
659
660
661
662
663
664
665
666
667
668
669
670
671
672
673
674
675
676
677
678
679
680
681
682
683
684
685
686
687
688
689
690
691
692
693
694
695
696
697
698
699
700
701
702
703
704
705
706
707
708
709
710
711
712
713
714
715
716
717
718
719
720
721
722
723
724
725
726
727
728
729
730
731
732
733
734
735
736
737
738
739
740
741
742
743
744
745
746
747
748
749
750
751
752
753
754
755
756
757
758
759
760
761
762
763
764
765
766
767
768
769
770
771
772
773
774
775
776
777
778
779
780
781
782
783
784
785
786
787
788
789
790
791
792
793
794
795
796
797
798
799
800
801
802
803
804
805
806
807
808
809
810
811
812
813
814
815
816
817
818
819
820
821
822
823
824
825
826
827
828
829
830
831
832
833
834
835
836
837
838
839
840
841
842
843
844
845
846
847
848
849
850
851
852
853
854
855
856
857
858
859
860
861
862
863
864
865
866
867
868
869
870
871
872
873
874
875
876
877
878
879
880
881
882
883
884
885
886
887
Bệnh phân trắng không làm tôm chết nhanh và chết hàng loạt như bệnh đốm trắng hay bệnh gan tụy cấp, nhưng nếu không khống chế sẽ gây ra những thiệt hại to lớn cho người nuôi tôm...
Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.