Nguồn tin: Báo Cần Thơ, 06/09/2010
Ngày cập nhật:
8/9/2010
Nghề nuôi thủy sản lồng bè đang phát triển mạnh mẽ tại vùng biển Kiên Giang khi số lồng bè liên tục tăng hằng năm. Đến nay, toàn tỉnh có gần 1.000 lồng bè cá tập trung chủ yếu ở huyện Kiên Hải, Kiên Lương, Hà Tiên và Phú Quốc. Đây được xem là một trong những nghề mũi nhọn trong phát triển kinh tế biển đảo. Không ít người đã trở thành tỉ phú trên các hòn đảo của Kiên Giang nhờ phát triển nghề này...
* “Nở nồi”...
Những năm gần đây, nghề nuôi cá lồng bè hình thành từ việc ngư dân ven biển đánh bắt cá thiên nhiên về nuôi vỗ béo trước khi đưa ra thị trường. Ngư dân chủ yếu nuôi cá có giá trị kinh tế cao, như: Cá bớp, cá múa sao (mú cọp), mú đen, hải sâm... Ngoài ra, nhiều hộ còn kết hợp nuôi vỗ béo cua, ghẹ và nhiều loại ốc khai thác từ thiên nhiên, để nâng giá trị sản phẩm. Ban đầu, chỉ vài chục hộ nuôi cá lồng tại các đảo trên vùng biển Kiên Giang, còn nay đã phát triển rộng vì cho hiệu quả kinh tế cao. Chị Nguyễn Thị Kim Thoa từ An Giang ra huyện Kiên Hải nuôi cá lồng bè, cho biết: “Mấy năm nay, giá cá tra liên tục trồi sụt, nuôi cá tra dễ thua lỗ, nên tôi ra đây để tìm cơ hội mới, quen với nghề này rồi, bỏ không được. Dù chuyển sang nuôi cá trên biển (cá bớp, cá mú) tuy ban đầu có nhiều khó khăn, nhưng tôi đã nhanh chóng làm quen được với loài thủy sản mới. Bây giờ, tay nghề đã khá hơn rồi, thu nhập cao hơn nuôi cá tra”. Theo chị Thoa và những người nuôi cá lâu năm ở Kiên Hải, nghề nuôi cá lồng bè trên biển khá đơn giản, cá ít khi bệnh nên đây là nghề “ăn chắc” của nhiều người trong suốt những năm qua. Lồng bè được làm từ các loại gỗ tốt, có thể sử dụng được hơn mười năm. Những người ít vốn thì làm riêng lẻ từng lồng; khi gặp thời tiết bất lợi, có mưa bão thì kết lại với nhiều lồng khác tạo thành bè lớn, giữ an toàn cho cá. Chí phí đầu tư cho mỗi lồng khoảng 20 - 30 triệu đồng, tùy theo mức đầu tư.
Thời gian nuôi kéo dài 8 - 10 tháng đối với cá con bắt từ thiên nhiên, 2 - 5 tháng đối với cá nuôi vỗ béo tùy kích cỡ. Tính bình quân, mỗi lồng phải đầu tư 60 - 100 triệu đồng/vụ nuôi nhưng mức lợi nhuận có thể đạt đến 40 - 60 triệu đồng/vụ. Vì thế, nghề nuôi cá lồng bè phát triển khá nhanh ở vùng biển Kiên Giang. Năm 2000, số lượng lồng bè nuôi cá trên biển không nhiều, nhưng hiện tại toàn tỉnh đã có gần 1.000 lồng bè chủ yếu ở các huyện Kiên Hải, Kiên Lương, Hà Tiên và Phú Quốc. Trong đó, tập trung nhiều nhất ở quần đảo Nam Du, thuộc huyện Kiên Hải, quần đảo này có đến 21 hòn đảo nằm gần nhau nên dù nằm ngoài khơi nhưng vùng biển này khá an toàn do được che chắn, giảm thiểu rủi ro khi mưa bão. Hơn nữa, Nam Du có môi trường nước sạch, không bị ô nhiễm, thích hợp cho nghề nuôi cá lồng bè theo hướng sinh thái.
Ông Đinh Văn Trung, Chủ tịch Hội Nông dân xã Nam Du, cho biết: “Người dân ở hai xã đảo Nam Du và An Sơn khá giả nhờ vào nghề nuôi cá lồng bè trên biển. Hiện nay, có người sở hữu cả chục lồng, doanh thu đến vài tỉ đồng mỗi năm. Môi trường nước tốt, thức ăn chủ yếu được sử dụng các loại cá khai thác tại chỗ, người nuôi rất ít sử dụng thuốc, hóa chất trong quá trình nuôi thương phẩm. Cá nuôi lồng bè chỉ hạn chế về diện tích, nhưng vẫn giữ được môi trường thiên nhiên cho cá, nên rất được ưa chuộng tại các thị trường lớn trong nước và xuất khẩu sang nhiều thị trường khó tính, như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc”. Trong hai năm trở lại đây, quần đảo này xuất hiện hàng chục lồng nuôi tôm hùm, mở ra hướng mới cho nghề nuôi thủy sản lồng bè ở địa phương. “Nuôi tôm hùm đòi hỏi môi trường nước trong lành, nguồn thực phẩm tươi, vùng biển này đáp ứng tốt hai điều kiện này. Thời gian tới, tôi sẽ phát triển quy mô nuôi và phổ biến cho người dân địa phương quy trình nuôi. Nhiều nước trên thế giới rất ưa tôm hùm nên nuôi không lo đầu ra” - anh Bùi Trung Nguyên, người tiên phong nuôi loại tôm “quý tộc” này chia sẻ.
* Cần định hướng phát triển cụ thể
Theo xu hướng thế giới, nghề nuôi nhân tạo cá biển phục vụ xuất khẩu là ngành mũi nhọn bên cạnh việc đầu tư phương tiện, trang thiết bị hiện đại phục vụ đánh bắt xa bờ. Nhiều nước có biển trên thế giới, đặc biệt là khu vực châu Á như Trung Quốc, Nhật Bản, Philippines, Indonesia, Đài Loan, Hong Kong, phát triển mạnh mẽ nghề này; chủ yếu là nuôi cá mú, cá bớp, cá cam, cá ngừ, cá chẽm, tôm hùm... Còn tại Việt Nam, nghề nuôi thủy sản lồng bè phát triển từ Quảng Ninh đến Kiên Giang. Vùng biển Kiên Giang rộng trên 63.000 km2, có trên 140 đảo bao bọc, độ sâu khu vực các đảo trung bình khoảng 20 - 30 mét, sóng cao không quá 5 mét, không có sóng ngầm, ít bị ảnh hưởng của mưa bão... nên có điều kiện thuận lợi hơn khu vực vịnh Bắc Bộ và miền Trung. Bà Trần Thị Hồng, Phó Chủ tịch UBND huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang, cho biết: “Hiện nay, Kiên Hải đang phối hợp với các ngành chức năng, nhà khoa học để quy hoạch chi tiết vùng nuôi trồng thủy sản đến năm 2015 và 2020. Kiên Hải có các sách ưu đãi nhằm khuyến khích nhà đầu tư vào địa phương trên các lĩnh vực ươm, thuần con giống để cung cấp nguồn giống tại chỗ, mở rộng diện tích nuôi và đa dạng chủng loại”. Tuy nhiên, để phát triển nghề nuôi cá lồng bè bền vững cần chiến lược phù hợp.
Trong chiến lược kinh tế biển, nghề nuôi cá lồng bè là một trong những giải pháp thúc đẩy phát triển kinh tế biển đảo, bởi giá trị kinh tế cao, thích hợp đưa vào xúc tiến thị trường xuất khẩu và phục vụ du lịch. Ông Nguyễn Vân Thanh, Chi cục trưởng Chi cục Nuôi trồng thủy sản Kiên Giang, đề xuất: “Hiện nay, việc xúc tiến thương mại cho nghề nuôi thủy sản lồng bè là điều cần thiết. Thủy sản nuôi lồng bè ở Kiên Giang rất được ưa chuộng trên thị trường, nhất là các thị trường lớn như TPHCM và các khu du lịch, nghỉ dưỡng. Riêng thị trường nước ngoài chủ yếu do thương lái trong nước thu mua rồi bán lại cho doanh nghiệp xuất khẩu. Trong khi, doanh nghiệp thủy sản trong tỉnh chưa quan tâm đến mặt hàng tươi sống này nên chưa có sự kết hợp giữa doanh nghiệp và người nuôi. Vì thế, dù giá trị cao nhưng nghề nuôi thủy sản lồng bè vẫn chưa phát triển xứng tầm, chưa khai thác hết tiềm năng của nó”. Theo ông Thanh, trong thời gian tới, người nuôi và doanh nghiệp chế biến, doanh nghiệp xuất khẩu cần có sự phối hợp trong việc sản xuất và tiêu thụ, quản lý quy trình nuôi... để nâng cao giá trị và tiến tới xây dựng thương hiệu, để nghề nuôi phát triển bền vững hơn. Song song đó, địa phương cần có quy hoạch và chiến lược phát triển cụ thể, không để xảy ra ô nhiễm môi trường nước ảnh hưởng đến ngư trường - vùng nuôi rộng lớn này.
Thành Nguyễn
- Kỹ thuật nuôi tôm, nuôi cá, phòng trị bệnh tôm, cá và các loại thủy sản khác
Các tin mới
Các tin năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009 | 2008 | 2007:
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
38
39
40
41
42
43
44
45
46
47
48
49
50
51
52
53
54
55
56
57
58
59
60
61
62
63
64
65
66
67
68
69
70
71
72
73
74
75
76
77
78
79
80
81
82
83
84
85
86
87
88
89
90
91
92
93
94
95
96
97
98
99
100
101
102
103
104
105
106
107
108
109
110
111
112
113
114
115
116
117
118
119
120
121
122
123
124
125
126
127
128
129
130
131
132
133
134
135
136
137
138
139
140
141
142
143
144
145
146
147
148
149
150
151
152
153
154
155
156
157
158
159
160
161
162
163
164
165
166
167
168
169
170
171
172
173
174
175
176
177
178
179
180
181
182
183
184
185
186
187
188
189
190
191
192
193
194
195
196
197
198
199
200
201
202
203
204
205
206
207
208
209
210
211
212
213
214
215
216
217
218
219
220
221
222
223
224
225
226
227
228
229
230
231
232
233
234
235
236
237
238
239
240
241
242
243
244
245
246
247
248
249
250
251
252
253
254
255
256
257
258
259
260
261
262
263
264
265
266
267
268
269
270
271
272
273
274
275
276
277
278
279
280
281
282
283
284
285
286
287
288
289
290
291
292
293
294
295
296
297
298
299
300
301
302
303
304
305
306
307
308
309
310
311
312
313
314
315
316
317
318
319
320
321
322
323
324
325
326
327
328
329
330
331
332
333
334
335
336
337
338
339
340
341
342
343
344
345
346
347
348
349
350
351
352
353
354
355
356
357
358
359
360
361
362
363
364
365
366
367
368
369
370
371
372
373
374
375
376
377
378
379
380
381
382
383
384
385
386
387
388
389
390
391
392
393
394
395
396
397
398
399
400
401
402
403
404
405
406
407
408
409
410
411
412
413
414
415
416
417
418
419
420
421
422
423
424
425
426
427
428
429
430
431
432
433
434
435
436
437
438
439
440
441
442
443
444
445
446
447
448
449
450
451
452
453
454
455
456
457
458
459
460
461
462
463
464
465
466
467
468
469
470
471
472
473
474
475
476
477
478
479
480
481
482
483
484
485
486
487
488
489
490
491
492
493
494
495
496
497
498
499
500
501
502
503
504
505
506
507
508
509
510
511
512
513
514
515
516
517
518
519
520
521
522
523
524
525
526
527
528
529
530
531
532
533
534
535
536
537
538
539
540
541
542
543
544
545
546
547
548
549
550
551
552
553
554
555
556
557
558
559
560
561
562
563
564
565
566
567
568
569
570
571
572
573
574
575
576
577
578
579
580
581
582
583
584
585
586
587
588
589
590
591
592
593
594
595
596
597
598
599
600
601
602
603
604
605
606
607
608
609
610
611
612
613
614
615
616
617
618
619
620
621
622
623
624
625
626
627
628
629
630
631
632
633
634
635
636
637
638
639
640
641
642
643
644
645
646
647
648
649
650
651
652
653
654
655
656
657
658
659
660
661
662
663
664
665
666
667
668
669
670
671
672
673
674
675
676
677
678
679
680
681
682
683
684
685
686
687
688
689
690
691
692
693
694
695
696
697
698
699
700
701
702
703
704
705
706
707
708
709
710
711
712
713
714
715
716
717
718
719
720
721
722
723
724
725
726
727
728
729
730
731
732
733
734
735
736
737
738
739
740
741
742
743
744
745
746
747
748
749
750
751
752
753
754
755
756
757
758
759
760
761
762
763
764
765
766
767
768
769
770
771
772
773
774
775
776
777
778
779
780
781
782
783
784
785
786
787
788
789
790
791
792
793
794
795
796
797
798
799
800
801
802
803
804
805
806
807
808
809
810
811
812
813
814
815
816
817
818
819
820
821
822
823
824
825
826
827
828
829
830
831
832
833
834
835
836
837
838
839
840
841
842
843
844
845
846
847
848
849
850
851
852
853
854
855
856
857
858
859
860
861
862
863
864
865
866
867
868
869
870
871
872
873
874
875
876
877
878
879
880
881
882
883
884
885
886
887
Bệnh phân trắng không làm tôm chết nhanh và chết hàng loạt như bệnh đốm trắng hay bệnh gan tụy cấp, nhưng nếu không khống chế sẽ gây ra những thiệt hại to lớn cho người nuôi tôm...
Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.