Nguồn tin: Báo Công An TP.HCM, 23/10/2010
Ngày cập nhật:
25/10/2010
Sản phẩm cá tra của Việt Nam đã có mặt ở 150 quốc gia trên thế giới, kim ngạch xuất khẩu năm 2009 đạt 1,2 tỷ USD và dự kiến năm 2010 sẽ đạt khoảng 1,5 tỷ USD. Tuy nhiên, người nông dân đang rơi vào tình trạng phá sản, nợ nần chồng chất.
SẢN VẬT CỦA SÔNG MÊ KÔNG
Sông Mê Kông bắt nguồn từ cao nguyên Tây Tạng xuôi về biển Đông qua các lãnh thổ Trung Quốc, Myanmar, Lào, Thái Lan, Campuchia và Việt Nam. Đến địa phận Việt Nam, sông chia thành hai nhánh: sông Hậu và sông Tiền, mỗi dòng sông có độ dài khoảng 220 - 250 km chảy vào ĐBSCL. Trên dòng sông này, con cá tra được xem là sản vật quí giá mà thiên nhiên ban tặng cho ĐBSCL. Trên thị trường thế giới, cá tra vẫn là mặt hàng chưa có “đối thủ” cạnh tranh trực tiếp với một loại cá nào khác, vì môi trường nước, khí hậu, thời tiết tại Việt Nam đặc biệt thích hợp và thuận lợi cho cá tra sinh sống, phát triển. Việt Nam luôn có đủ sản lượng để cung cấp ra thị trường, không bị ảnh hưởng bởi yếu tố mùa vụ do cá tra có thể nuôi quanh năm. Hơn nữa, giá thành nuôi cá tra ở Việt Nam rẻ hơn từ 20 - 30% so với các loại cá khác. Trên thế giới, cá tra là một trong sáu loại thực phẩm không thể thiếu và cũng là một trong những loài cá có giá trị kinh tế cao. Cá tra của Việt Nam được nhiều thị trường trên thế giới ưa chuộng vì thịt trắng, thơm ngon hơn so với các loài cá da trơn khác. Tại Nga, cá tra được xem là một thực phẩm “hot” và tại Mỹ các sản phẩm chế biến từ cá tra của Việt Nam là một trong 10 mặt hàng được ưa chuộng của người tiêu dùng. Thông tin trên được Hiệp hội thủy sản Mỹ đưa ra tại buổi làm việc của hiệp hội này với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ngày 10-9-2010 tại thành phố Hồ Chí Minh. Ông Lương Lê Phương - Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết, cá tra là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của ngành thủy sản Việt Nam nên Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã có những chương trình quản lý chất lượng từ ao nuôi đến bàn ăn, cùng nhiều văn bản hướng dẫn nhằm kiểm soát tốt chất lượng chế biến các sản phẩm từ cá tra. Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Mỹ khoảng 41.000 tấn cá tra với giá trị khoảng 134 triệu đô la Mỹ, chiếm 6,75% tổng giá trị xuất khẩu cá tra (607.000 tấn) trong năm 2009 vừa qua.
GÁNH NẶNG CỦA NGƯỜI NÔNG DÂN
Xuất phát từ hiệu quả kinh tế của con cá tra mang lại trong nhiều năm qua, đặc biệt là giá trị kim ngạch xuất khẩu từ sản phẩm này ngày càng tăng đã làm cho diện tích, sản lượng nuôi, nhà máy chế biến, lĩnh vực tài chính ngân hàng.v.v... phát triển ngày một tăng tốc. Hệ lụy của sự phát triển “nóng” này đang để lại những hậu quả đáng tiếc. Do ảnh hưởng của việc phát triển tự phát, thiếu kế hoạch, thiếu quy hoạch đồng bộ đã dẫn đến tình trạng khủng hoảng thừa cá tra những năm 2007 - 2008, để lại hậu quả nặng nề cho năm 2009 và những tháng đầu năm 2010. Thực tế cho thấy nhiều hộ nông dân nuôi cá tra phải “treo” ao nuôi và phải gánh một khoản nợ rất lớn. Tuy thị trường xuất khẩu có những tín hiệu lạc quan, không ngừng mở rộng nhưng đó là những thị trường nhỏ. Từ năm 2008 đến nay, khi xảy ra cuộc khủng hoảng toàn cầu, một số mặt hàng xuất khẩu khác gặp không ít khó khăn nhưng con cá tra vẫn duy trì tốt, nhưng trong thực tế vẫn không kích thích được người nuôi. Việc giảm giá và thừa nguyên liệu liên tục mấy năm nay đẩy người nuôi vào tình trạng thua lỗ kéo dài, lượng người nuôi phá sản ngày càng nhiều. Và điều khó tránh khỏi trong thời gian tới là thiếu nguồn cung cá nguyên liệu cho chế biến, nếu không có những giải pháp hỗ trợ tích cực thì không kích thích người nuôi tái sản xuất, bởi nhiều lý do khác nhau. Thứ nhất, theo tính toán của người nuôi cá tra, để chuyển hóa được 1 kg cá tra nguyên liệu cần 1,8 - 2 kg thức ăn. Nếu chỉ tính thức ăn loại 22% đạm, hiện nay khoảng 8.400 đồng/kg thì giá thức ăn cấu thành trong con cá tra đã ở mức 16.400 đồng/kg, chiếm khoảng 80% chi phí (chưa tính đến các chi phí khác như con giống, thuốc thú y thủy sản, nhân công, bơm nước, lãi suất ngân hàng.v.v...). Như vậy, với mức giá cá nguyên liệu hiện nay chỉ còn khoảng 16.500 - 16.800 đồng/kg thì người nuôi cá tra chắc chắn lỗ trên 1.000 đ/kg. Để giải quyết vấn đề này, trong cuộc họp ngày 19-10-2010, Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) đã đề nghị Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về việc áp giá sàn mua cá tra nguyên liệu là 20.000 đồng/kg và giá xuất khẩu cá tra là 2,8 USD/kg. Đồng thời kiên quyết xử lý nghiêm bằng hình thức phạt tiền đưa vào quỹ bình ổn giá cả đối với các doanh nghiệp có hành vi gian lận thương mại, cạnh tranh thiếu lành mạnh và có biện pháp “cứng” đối với những doanh nghiệp không có nhà máy chế biến, các doanh nghiệp này thường “mua đi - bán lại” và đã làm đảo lộn thị trường trong thời gian qua bằng việc giảm chất lượng sản phẩm, giảm giá bán dẫn đến ảnh hưởng đến uy tín, chất lượng và giá trị sản phẩm cá tra Việt Nam. Nếu Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đồng ý với đề xuất này thì đây là tín hiệu tốt cho người nuôi cá tra. Thứ hai, những hộ nuôi quy mô nhỏ không còn khả năng tái đầu tư và đã “treo” ao đến 60 - 70%; một số đã chuyển sang ươm cá giống, nuôi các loại cá khác có giá trị kinh tế thấp, tiêu thụ trong nước và một số hộ đã cho doanh nghiệp thuê ao. Đối với những người nuôi với qui mô lớn thì do giá cả đầu ra bấp bênh, lợi nhuận thấp hoặc không có lợi nhuận nên không mạnh dạn đầu tư. Thứ ba, vốn đầu tư nuôi cá tra khá lớn nên đa số hộ dân phải vay vốn ngân hàng, trong khi đó tỷ suất lợi nhuận rất thấp (1 - 2%) mà rủi ro lại cao. Thứ tư, việc liên kết giữa bốn nhà (sản xuất - chế biến - khoa học - quản lý) còn nhiều yếu kém. Giữa người nuôi và doanh nghiệp chưa thực sự bền vững, vì thế đã xảy ra tình trạng cung cầu mất ổn định. Việc liên kết giữa sản xuất và chế biến chưa chặt chẽ và nếu có chỉ mang tính hình thức...
LỐI RA NÀO CHO NGƯỜI NUÔI CÁ?
Đối với các sản phẩm về cá tra, chất lượng phải được xem là tiêu chuẩn hàng đầu. Do vậy trong thời gian qua các ban, ngành Trung ương và địa phương đã và đang vào cuộc để quản lý gắt gao về chất lượng sản phẩm. Với tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm ngày càng cao, quản lý môi trường tốt sẽ không còn cơ hội cho những thông tin sai lệch, bôi xấu như hiện nay ở một số nước về hình ảnh cá tra Việt Nam. Hơn nữa, Quốc hội và Chính phủ Việt Nam sớm lên tiếng và đấu tranh mạnh mẽ hơn về vấn đề Mỹ áp thuế chống bán phá giá cá tra của Việt Nam. Bên cạnh đó, Chính phủ cần sớm ban hành Luật về hội nghề nghiệp nhằm tạo hành lang pháp lý để các hội nghề nghiệp hoạt động được thuận lợi. Thời gian qua, thực hiện chính sách hỗ trợ lãi suất 4%/năm trong gói kích cầu của Chính phủ đã phát huy tác dụng, khôi phục nhanh chóng tình trạng thua lỗ trong nuôi cá tra. Đề nghị Chính phủ xem xét tiếp tục hỗ trợ để người nuôi cá thua lỗ có cơ hội tiếp tục sản xuất. Chính phủ cần có chính sách hỗ trợ về thuế đối với mặt hàng thức ăn thủy sản, cụ thể áp dụng thuế suất bằng 0 cả đầu vào và đầu ra thức ăn thủy sản nhằm giúp cho người nuôi giảm giá thành và hiệu quả sản xuất ổn định. Song song đó, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn sớm xây dựng nghị định về sản xuất và tiêu thụ cá tra Việt Nam, sớm ban hành chính sách về chuỗi liên kết dọc trong sản xuất và tiêu thụ cá tra, quy hoạch lại các nhà máy chế biến, không để phát triển nóng như hiện nay (theo ước tính các nhà máy dư thừa công suất trên 100%). Ngân hàng Nhà nước Việt Nam nghiên cứu tiếp tục hỗ trợ vốn vay và khoanh nợ cho những hộ thua lỗ không còn khả năng về vốn nhưng còn điều kiện vùng nuôi để tiếp tục duy trì sản xuất cung cấp nguyên liệu cho nhà máy chế biến xuất khẩu tham gia trong các chuỗi liên kết.
Để phát triển bền vững nghề nuôi cá tra ở ĐBSCL, có hai nội dung quan trọng mà chính quyền địa phương cần phải quản lý chặt chẽ hơn nữa là: thứ nhất, không nên phát triển thêm các nhà máy chế biến thủy sản vì các nhà máy đã đạt đỉnh điểm 2 triệu tấn/năm (gấp đôi vùng nguyên liệu). Những nhà máy chưa có vùng nguyên liệu thì phải có sự liên kết để đảm bảo nguyên liệu sản xuất. Còn những nhà máy không có khách hàng (làm gia công, mua đi bán lại) thì các cơ quan chức năng của địa phương cần kiểm soát chặt chẽ, vì trong thời gian qua những nhà máy chế biến này đã làm xấu thị trường xuất khẩu cá tra. Thứ hai, các vùng nuôi, người nuôi cá tra phải được cơ quan nhà nước cấp phép chứng nhận nuôi trồng và các nhà máy chế biến chỉ được mua cá ở những vùng nuôi thì mới có thể quản lý được sản lượng cung - cầu trong năm, đồng thời truy xuất được nguồn gốc của vùng nguyên liệu khi cần thiết.
PHƯƠNG LAN
- Kỹ thuật nuôi tôm, nuôi cá, phòng trị bệnh tôm, cá và các loại thủy sản khác
Các tin mới
Các tin năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009 | 2008 | 2007:
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
38
39
40
41
42
43
44
45
46
47
48
49
50
51
52
53
54
55
56
57
58
59
60
61
62
63
64
65
66
67
68
69
70
71
72
73
74
75
76
77
78
79
80
81
82
83
84
85
86
87
88
89
90
91
92
93
94
95
96
97
98
99
100
101
102
103
104
105
106
107
108
109
110
111
112
113
114
115
116
117
118
119
120
121
122
123
124
125
126
127
128
129
130
131
132
133
134
135
136
137
138
139
140
141
142
143
144
145
146
147
148
149
150
151
152
153
154
155
156
157
158
159
160
161
162
163
164
165
166
167
168
169
170
171
172
173
174
175
176
177
178
179
180
181
182
183
184
185
186
187
188
189
190
191
192
193
194
195
196
197
198
199
200
201
202
203
204
205
206
207
208
209
210
211
212
213
214
215
216
217
218
219
220
221
222
223
224
225
226
227
228
229
230
231
232
233
234
235
236
237
238
239
240
241
242
243
244
245
246
247
248
249
250
251
252
253
254
255
256
257
258
259
260
261
262
263
264
265
266
267
268
269
270
271
272
273
274
275
276
277
278
279
280
281
282
283
284
285
286
287
288
289
290
291
292
293
294
295
296
297
298
299
300
301
302
303
304
305
306
307
308
309
310
311
312
313
314
315
316
317
318
319
320
321
322
323
324
325
326
327
328
329
330
331
332
333
334
335
336
337
338
339
340
341
342
343
344
345
346
347
348
349
350
351
352
353
354
355
356
357
358
359
360
361
362
363
364
365
366
367
368
369
370
371
372
373
374
375
376
377
378
379
380
381
382
383
384
385
386
387
388
389
390
391
392
393
394
395
396
397
398
399
400
401
402
403
404
405
406
407
408
409
410
411
412
413
414
415
416
417
418
419
420
421
422
423
424
425
426
427
428
429
430
431
432
433
434
435
436
437
438
439
440
441
442
443
444
445
446
447
448
449
450
451
452
453
454
455
456
457
458
459
460
461
462
463
464
465
466
467
468
469
470
471
472
473
474
475
476
477
478
479
480
481
482
483
484
485
486
487
488
489
490
491
492
493
494
495
496
497
498
499
500
501
502
503
504
505
506
507
508
509
510
511
512
513
514
515
516
517
518
519
520
521
522
523
524
525
526
527
528
529
530
531
532
533
534
535
536
537
538
539
540
541
542
543
544
545
546
547
548
549
550
551
552
553
554
555
556
557
558
559
560
561
562
563
564
565
566
567
568
569
570
571
572
573
574
575
576
577
578
579
580
581
582
583
584
585
586
587
588
589
590
591
592
593
594
595
596
597
598
599
600
601
602
603
604
605
606
607
608
609
610
611
612
613
614
615
616
617
618
619
620
621
622
623
624
625
626
627
628
629
630
631
632
633
634
635
636
637
638
639
640
641
642
643
644
645
646
647
648
649
650
651
652
653
654
655
656
657
658
659
660
661
662
663
664
665
666
667
668
669
670
671
672
673
674
675
676
677
678
679
680
681
682
683
684
685
686
687
688
689
690
691
692
693
694
695
696
697
698
699
700
701
702
703
704
705
706
707
708
709
710
711
712
713
714
715
716
717
718
719
720
721
722
723
724
725
726
727
728
729
730
731
732
733
734
735
736
737
738
739
740
741
742
743
744
745
746
747
748
749
750
751
752
753
754
755
756
757
758
759
760
761
762
763
764
765
766
767
768
769
770
771
772
773
774
775
776
777
778
779
780
781
782
783
784
785
786
787
788
789
790
791
792
793
794
795
796
797
798
799
800
801
802
803
804
805
806
807
808
809
810
811
812
813
814
815
816
817
818
819
820
821
822
823
824
825
826
827
828
829
830
831
832
833
834
835
836
837
838
839
840
841
842
843
844
845
846
847
848
849
850
851
852
853
854
855
856
857
858
859
860
861
862
863
864
865
866
867
868
869
870
871
872
873
874
875
876
877
878
879
880
881
882
883
884
885
886
887
Bệnh phân trắng không làm tôm chết nhanh và chết hàng loạt như bệnh đốm trắng hay bệnh gan tụy cấp, nhưng nếu không khống chế sẽ gây ra những thiệt hại to lớn cho người nuôi tôm...
Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.