Nguồn tin: Báo Phú Yên, 25/03/2011
Ngày cập nhật:
27/3/2011
Công trình nghiên cứu rùa nước sinh sản chưa biết thành công đến đâu, nhưng từ ngày rùa nước tăng giá cao ông Hoàng phải bỏ tiền túi cả trăm triệu đồng để làm chuồng nuôi bảo vệ đàn rùa trước những tay “đạo chích”.
Nông dân Phạm Ngọc Hoàng ở thị trấn Hai Riêng (huyện Sông Hinh - Phú Yên) đang sở hữu hơn 50 con rùa nước, vì vậy mà nhiều người gọi ông là “vua rùa nước”. Nếu bán đi số rùa này, ông có thể thành tỉ phú. Tuy nhiên, ông Hoàng quyết tâm nuôi đàn rùa nhằm tìm hiểu quá trình sinh trưởng để nhân giống đàn rùa quý hiếm này. “Tôi chỉ bán rùa khi rùa chủ động sinh sản”, ông Hoàng nói.
Bầy rùa quý hơn 30 con trưởng thành đang được lưu giữ tại nhà ông Hoàng
ĐƯỜNG ĐẾN VỚI... RÙA
Tìm nhà ông Hoàng không khó. “Đến ngã ba thị trấn Hai Riêng hỏi nhà ông Hoàng chình thì ai cũng biết”, một thợ săn rùa mách nước cho tôi như vậy. Trước đây, ông Hoàng được nhiều người biết là do buôn chình chứ không phải ông nổi tiếng vì chuyện nuôi rùa. Nhưng bây giờ, chuyện nuôi rùa “giải trí” của ông Hoàng và đàn rùa của ông nuôi hơn chục năm nay trở thành niềm ao ước và thành đề tài tranh luận của nhiều người.
Ông Phạm Ngọc Hoàng hiện sống ở khu phố 4, vốn là người buôn sái vàng các tỉnh Ninh Thuận, Khánh Hòa đến tận các tỉnh miền Nam cuối những năm 1990, sau làm nghề nông kiêm thu mua và bán cá chình. Ông Hoàng có cơ hội tiếp cận loài rùa nước này rất sớm, từ thời ông đi buôn sái vàng đã gặp nhiều rùa nước sống quanh khu vực hầm vàng. Dịp ông Hoàng có việc vào Nam thấy một hộ nuôi nhiều giống rùa (trong đó có rùa nước) và ba ba nên ông có ý định nuôi rùa. Thấy loài rùa này dễ nuôi nên ông mua về hoặc sau mỗi lần hút hầm đãi sái vàng cạn bể, ông bắt các chú rùa nhỏ về nuôi làm cảnh. “Thời đó, tỉnh mình có phong trào nuôi ba ba, cá chình. Tui nghĩ bụng, trong khi rất nhiều người đổ xô nuôi ba ba, nuôi cá chình thì mình nuôi… rùa”, ông Hoàng hóm hỉnh.
Thấy ông Hoàng thích nuôi rùa, những người bạn làm ăn gặp loại rùa này cũng bắt rồi mang cho ông nuôi. Cứ vậy, ông để rùa tự do sống và sinh sản trong một cái chuồng nhỏ sau nhà. “Giống rùa nước này dễ nuôi. Ngày trước khi hút hầm vàng không có con gì sống nhưng vẫn có rất nhiều rùa nước sống được”, ông Hoàng nhớ lại.
THAO THỨC CÙNG... RÙA
Ông Hoàng bỗng dưng được giới “săn rùa” phong cho danh hiệu: “tỉ phú”, bởi ông đang sở hữu đàn rùa lớn, trong đó có hơn 30 con đã trưởng thành có trọng lượng từ 1 - 1,5 kg. Căn cứ theo giá thị trường ở thời điểm này (khoảng 27 triệu đồng/kg), chỉ tính số rùa trưởng thành, ông cũng đã có cả tỉ đồng.
Tuy nhiên, với quyết tâm giữ lại số rùa trên để nuôi, ông Hoàng mặc nhiên trở thành “tỉ phú” nhưng chỉ trên danh nghĩa. Đã thế, do sở hữu đàn rùa có giá trị tiền tỉ nhiều khi khiến ông Hoàng “mất ngủ” vì chỉ cần “lỏng lẻo” một chút là đàn rùa của ông lập tức “bốc hơi”. Bởi vậy, để bảo vệ và chăm sóc đàn rùa sinh sản và phát triển, ông Hoàng phải đầu tư gần trăm triệu đồng xây dựng chuồng rộng rãi, kiên cố nhằm tạo không gian thoáng cho rùa và tránh bọn kẻ xấu dòm ngó. Chuồng nuôi mới, ông làm hàng rào bảo vệ bằng những thanh sắt to bằng ngón tay, chỉ có một cánh cổng được thiết kế chắc chắn và một ổ khóa lớn chỉ mình ông Hoàng có chìa.
“Giá trị của đàn rùa lớn lắm, tôi phải thiết kế chuồng nuôi thật đặc biệt với nhiều cột bê tông chắc chắn và hàng trăm thanh sắt to, vững chắc. Nhưng chuồng nuôi cũng phải đảm bảo các điều kiện như môi trường tự nhiên của loài rùa này như ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm, chỗ ăn, sân chơi… Bên trong là một hệ thống thoát nước đặc biệt để giữ vệ sinh cho bầy rùa”, ông Hoàng nói.
Những ngày đang sửa chữa lại chuồng nuôi, ông Hoàng phải “bê” nguyên đàn rùa vào phòng ngủ và… ngủ chung với chúng mà vẫn thấy lo. “Nghĩ lại thấy rất cực. Tỉ phú thì chưa thấy đâu mà suốt ngày cứ nơm lớp lo sợ, canh chừng lũ rùa còn hơn con mọn”, ông Hoàng phân trần.
Ông Phạm Ngọc Hoàng “khoe” những tư liệu hướng dẫn nuôi rùa nước; bên ngoài là chuồng rùa đang xây - Ảnh: N.XUÂN
QUYẾT GIỮ ĐÀN RÙA
Khi chúng tôi hỏi, giá rùa đang tăng cao ông định khi nào bán rùa? Ông Hoàng quả quyết “Tôi chỉ bán rùa khi nào chủ động được chuyện sinh sản của rùa, chủ động được nguồn giống…”.
Theo ông Hoàng, trước tết khi giá rùa lên trên 20 triệu đồng/kg, nhiều người đã tìm đến ngỏ lời muốn mua lại số rùa để nuôi sinh sản nhưng ông không bán. Ông nói: “Tôi cũng nghĩ rất đơn giản: nếu bán đi số rùa thì sẽ kiếm được nhiều tiền nhưng không thể kiếm sống lâu dài. Nếu loài rùa này thực sự quý thì nó sẽ không dễ mất giá. Tôi thử đầu tư nuôi theo hướng thương phẩm để sau này bán ra khi đã chủ động được nguồn giống. Còn nếu nó mất giá thì coi như mình lại thêm một chuyến “chơi ngông”…”, ông Hoàng cười hóm hỉnh.
Thực ra, chuyện nuôi rùa ông Hoàng đã có mong ước từ lâu, nhưng chưa có điều kiện thực hiện ước mơ này. Theo ông Hoàng, đến năm 2007, đàn rùa của ông đang có 30 con nhưng giống rùa này cũng chưa có giá trị thương mại, khi đó tỉnh Phú Yên có thông báo những ai có nuôi thú rừng thì đăng ký giấy phép nuôi. Ông Hoàng bắt đầu khai báo, đăng ký nuôi giống rùa nước nhưng cũng không chú trọng lắm. Vả lại cũng không có kinh nghiệm gì về chuyện nuôi rùa nên cứ thả rùa sinh sản tự nhiên. Nhưng gần đây, con gái ông thấy ông thích nuôi rùa nên đã tìm kiếm nhiều tài liệu cho ông tham khảo, nghiên cứu để áp dụng trong việc chăm sóc đàn rùa. Hiện tại, ông sưu tầm được nhiều tài liệu về cách nuôi rùa nước và đầu tư chuồng nuôi chắc chắn, thoáng mát vừa bảo vệ vừa tạo điều kiện cho việc theo dõi rùa sinh sản, sinh trưởng. “Tôi nghĩ, đàn rùa sẽ sinh trưởng tốt và mình có điều kiện theo dõi việc sinh sản của rùa nên dễ chủ động trong việc tạo nguồn giống trong thời gian tới”, ông Hoàng tin tưởng.
Chưa biết hiệu quả của mô hình nuôi rùa nước thương phẩm của ông Hoàng mang lại hiệu quả thế nào, nhưng thời điểm mà giới chuyên môn đang lo ngại, nếu mọi người đổ xô săn bắt tận diệt giống rùa Trung Bộ để bán kiếm lời “nóng” như hiện nay sẽ gây ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường sinh thái chung, thì việc một lão nông dám “chơi ngông” giữ rùa để nuôi là một điều đáng ghi nhận.
AN NGUYÊN - NGÔ XUÂN http://www.baobackan.org.vn/channel/1121/201103/Can-them-nhieu-chinh-sach-khuyen-khich-phat-trien-kinh-te-thuy-san-1984550/ (TS-em lay hinh) Báo Bắc Kạn, 25/03/2011 Bắc Kạn: Cần thêm nhiều chính sách khuyến khích phát triển kinh tế thủy sản
Mặc dù là tỉnh miền núi nhưng Bắc Kạn vẫn có nhiều tiềm năng phát triển kinh tế thuỷ sản. Thời gian qua, những chính sách của tỉnh nhằm khuyến khích phát triển ngành kinh tế này đã khiến thuỷ sản dần trở thành hướng đi xoá đói giảm nghèo cho nhiều hộ dân.
Khai thác tiềm năng thủy sản góp phần xóa đói giảm cho người dân trong tỉnh.
Theo số liệu thống kê tổng diện tích mặt nước tự nhiên có khả năng nuôi trồng thuỷ sản (không kể hồ Ba Bể) của tỉnh Bắc Kạn là khoảng 1.000 ha. Trong đó, nhiều hồ có diện tích rộng trên 2 ha, như: hồ Sum Ngược, xã Văn Học và hồ Mạy Đảy, xã Đổng Xá (huyện Na Rì), hồ Bản Vài, xã Khang Ninh (huyện Ba Bể), hồ Bản Trang, xã Đức Vân (huyện Ngân Sơn)… và hệ thống sông, suối khá phong phú thuận lợi cho phát triển thuỷ sản. Mỗi năm trung bình tỉnh ta nuôi trồng khoảng 700 - 800 ha thủy sản. Ba Bể, Na Rì, Chợ Mới, Chợ Đồn là những huyện có tiềm năng, thế mạnh phát triển chăn nuôi thuỷ sản.
Tại huyện Ba Bể, từ bao đời nay, cư dân các xã quanh hồ Ba Bể như: Nam Mẫu, Khang, Ninh, Quảng Khê, Cao Thượng đã khai thác, đánh bắt nguồn lợi thuỷ sản, không ít hộ trong đó mưu sinh bằng nghề này. Không chỉ khai thác nguồn lợi thủy sản trong tự nhiên, 5 năm trở lại đây huyện Ba Bể tự phát hình thành mô hình nuôi cá lồng trên sông, hồ, điển hình ở các xã Nam Mẫu, Khang Ninh. Các mô hình nuôi cá lồng của ông Dương Hữa Lân, Vi Văn thuật, xã Khang Ninh… cho thu nhập hàng chục triệu đồng/năm. Nuôi cá lồng đã mở ra hướng đi đầy triển vọng cho kinh tế thuỷ sản ở Ba Bể.
Thấy được tiềm năng và lợi thế về nuôi trồng thuỷ sản, chính quyền nhiều địa phương huyện Ba Bể đã mạnh dạn đầu tư cho lĩnh vực này. Năm 2007, được sự trợ giúp của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và chính quyền xã Khang Ninh, hơn chục hộ dân thôn Nà Kiêng đã tham gia mô hình nuôi tôm càng xanh với kết quả rất khả quan. Nhưng sau khi dự án kết thúc, người dân gặp khó khăn trong việc mua chọn tôm giống nên mô hình này không còn. Mới đây, chính quyền xã Khang Ninh đã phối hợp với Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn khảo sát lập dự án nuôi trồng thuỷ sản hồ Bản Vài. Nếu dự án này được thực sẽ mở ra cơ hội phát triển về thuỷ sản, du lịch cho xã Khang Ninh, đồng thời góp phần hạn chế lũ sông Năng xâm lấn đồng ruộng của người dân.
Chị Triệu Thị Hiền, cán bộ Khuyến nông xã Khang Ninh cho biết: Với tiềm năng và lợi thế mà Khang Ninh sẵn có nếu được quan tâm, đầu tư đúng mức thì thuỷ sản sẽ là hướng đi quan trọng góp phần xoá đói, giảm nghèo cho người dân.
Thực hiện chủ trương xây dựng cánh đồng 50 triệu đồng/ha của UBND tỉnh, nhiều địa phương đã áp dụng thành công mô hình nuôi cá trên ruộng lúa. Sau khi cấy xong lúa mùa chừng 10 ngày, người dân bắt đầu thả cá xuống ruộng, khoảng 1 tháng sau thì được thu hoạch. Trừ mọi khoản chi phí, mỗi ha nuôi cá trên ruộng thu lời khoảng 20 triệu đồng. Đây thực sự là hướng đi rất triển vọng, cần được nhân rộng.
Từ năm 2000 cho đến nay, bằng sự hỗ trợ về vốn, con giống, kỹ thuật Dự án Phát triển thuỷ sản tại các địa phương đã góp phần thúc đẩy kinh tế thuỷ sản ngày càng phát triển. Nhiều nông hộ đã thay đổi nhận thức từ “thả cá” sang “nuôi cá”, có nghĩa là họ đã coi nuôi trồng thuỷ sản là một nghề thật sự.
Tuy nhiên, nhìn một cách tổng quan thì kinh tế thuỷ sản của tỉnh Bắc Kạn vẫn chưa phát triển tương xứng với tiềm năng sẵn có. Do thiếu vốn, kỹ thuật và chưa nhận được nhiều sự hỗ trợ từ phía ngành chức năng nên các hộ dân thường chăn nuôi thuỷ sản nhỏ lẻ, năng suất chưa cao, chưa thực sự trở thành hàng hoá. Nguồn giống thủy sản chưa được quản lý chặt chẽ nên chất lượng thuỷ sản nhiều khi không được đảm bảo, gây thua thiệt cho người dân.
Để kinh tế thuỷ sản thực sự là hướng đi quan trọng góp phần giải quyết bài toán xoá đói giảm nghèo cho người dân rất cần sự quan tâm chỉ đạo cấp ngành chức năng tạo điều kiện về cơ chế, chính sách cùng sự hỗ trợ về tài chính để thuỷ sản phát triển tương xứng với tiềm năng.
N.D http://www.tienphong.vn/Kinh-Te/532281/Gia-tom-xuat-khau-tang-15.html (XK-TS) Tiền Phong, 25/03/2011 Giá tôm xuất khẩu tăng 15%
Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam cho biết, giá tôm xuất khẩu trong 3 tháng đầu năm 2010, tăng 15% so với cuối năm 2010 khoảng 9,2 USD/kg.
Cả nước đang có gần 200 doanh nghiệp xuất khẩu tôm sang 58 nước và vùng lãnh thổ. Những doanh nghiệp xuất khẩu đạt kim ngạch cao trong 3 tháng đầu năm 2011 là Cty CP Thủy hải sản Minh Phú, Cty TNHH Kinh doanh chế biến thủy sản và XNK Quốc Việt, Cty CP Thủy sản Minh Hải và Cty CP chế biến Thủy sản XNK Cà Mau.
Nguyễn Tiến Hưng http://www.ktdt.com.vn/newsdetail.asp?NewsId=290407&CatId=86 (CN-em lay hinh) Kinh Tế Đô Thị, 24/03/2011 Giá thức ăn chăn nuôi tăng: Người nuôi bò sữa tìm cách sinh lãi
Nhờ phối trộn thức ăn, anh Lê Phú Thiện đã giảm đáng kể chi phí nuôi bò sữa. Ảnh: Văn Thắng
Để đối phó với tình trạng tăng giá thức ăn chăn nuôi (TĂCN), hiện nay, nhiều người nuôi bò sữa trên địa bàn Hà Nội đang tìm cách tiết giảm chi phí đầu vào, đảm bảo chăn nuôi có lãi.
Vẫn có lãi
Thời điểm này, người chăn nuôi bò sữa đang vấp phải khó khăn chung là tình trạng tăng giá chóng mặt của các mặt hàng TĂCN. Tuy nhiên, theo tính toán của nhiều nông dân, hiện chăn nuôi bò sữa vẫn đảm bảo có lãi. Anh Lê Văn Hợp, chủ hộ 4 con bò sữa thôn Đông, xã Tàm Xá, huyện Đông Anh nhẩm tính: Hiện giá bán sữa tươi là 10.500 đồng/kg, trong đó chi phí cám chiếm từ 4.000 - 4.500 đồng/kg sữa. Với 3 con bò đang cho khai thác trên 60 kg sữa/ngày, anh Hợp cũng thu lãi 300.000 đồng/ngày.
Chị Hoàng Thị Loan, Chủ trạm thu mua sữa của xã Tàm Xá và cũng là chủ đại lý cung ứng cám cho biết: Giá sữa chỉ tăng vài trăm đồng/lần, nhưng giá cám tăng mỗi lần tăng vài chục ngàn đồng/bao. Tuy nhiên, do bò sữa ít rủi ro và dịch bệnh hơn lợn, gà nên chăn nuôi vẫn đảm bảo có lãi. Theo tính toán của chị Loan, với mức giá thức ăn chăn nuôi cao như hiện nay, nuôi bò sữa vẫn có lãi dù giảm so với trước đây, chỉ đạt khoảng 30 - 40% (trước là 50%).
Cùng trong tình cảnh đó, người chăn nuôi bò sữa xã Vân Hòa, huyện Ba Vì cũng đang phải xoay sở với sự gia tăng chi phí đầu vào. Ông Bùi Hoàng Long, Chủ nhiệm HTX Nông nghiệp Vân Hòa cho biết: Từ đầu năm đến nay, giá một bao cám cho bò sữa loại 40 kg tăng thêm 50.000 đồng, lên mức 310.000 đồng/bao. Trong khi đó, giá sữa mới được điều chỉnh tăng thêm 200 đồng/kg. "Với sự chênh lệch về mức giá như thế này, dù nuôi bò sữa hiện vẫn có lãi nhưng trừ cả chi phí thức ăn xanh, công, tiền điện thì số lãi không nhiều. Nếu tình trạng này kéo dài, người nuôi bò sữa sẽ gặp rất nhiều khó khăn" - ông Long chia sẻ.
Linh hoạt trong cách sử dụng TĂCN
Để giảm chi phí đầu vào, đảm bảo mức lãi cho đàn bò sữa, nhiều nông dân đã linh hoạt tìm cách phối trộn thức ăn. Anh Lê Phú Thiện, hộ nuôi 6 con bò sữa ở thôn Đông, xã Tàm Xá cho biết: Hiện nay, giá một bao 10kg cám đậm đặc ăn thẳng cho bò sữa là 142.000 đồng, tức là khoảng 14.200 đồng/kg. Để giảm chi phí, chúng tôi trộn đậu tương rang xay nhỏ, chất khoáng, bột ngô và bột cám gạo với cám đậm đặc. Cách làm này vẫn đảm bảo chất lượng, nhưng giá thành thấp hơn 3.000 - 4.000 đồng/kg so với chỉ cho cám ăn thẳng. Ông Hoàng Viết Phượng, Chủ tịch UBND xã Tàm Xá cho biết: Hiện nay chăn nuôi bò sữa vẫn là một hướng đi có hiệu quả kinh tế cao. Toàn xã Tàm Xá hiện nay có khoảng 150 con bò sữa đang cho khai thác và gần 200 con bê choai. Để đẩy mạnh sản xuất, xã đang đề nghị huyện cho phép quy hoạch vùng bãi để phát triển chăn nuôi bò sữa, nâng cao thu nhập cho người nông dân.
Cũng giữ được cái nhìn lạc quan, ông Phạm Văn Ba, Chi hội trưởng Chi hội Chăn nuôi bò sữa xã Phương Đình, huyện Đan Phượng chia sẻ: Mặc dù giá thức ăn tăng nhưng đầu ra cho sản phẩm sữa vẫn đảm bảo. Do đó người nông dân vẫn tin tưởng vào phát triển đàn bò. Hiện toàn xã có hơn 100 con bò sữa, mỗi ngày cho thu hoạch trên 1 tấn sữa. Mỗi nhà nuôi từ 2 - 3 con bò sữa vẫn là hướng đi cho thu nhập cao hơn so với làm nông nghiệp đơn thuần.
Trước tình trạng tăng giá TĂCN, một số công ty thu mua sữa đã tăng giá thu mua như: Công ty CP sữa Việt Nam (Vinamilk) tăng giá mua sữa tươi lên 10.900 đồng/kg (tăng 800 đồng/kg), áp dụng cho khu vực TP HCM và phụ cận, còn đối với các khu vực khác thì tăng giá thu mua thêm 480 - 1.150 đồng/kg. Bà Nguyễn Thị Bảy, Phó Giám đốc Công ty CP sữa Quốc tế (IDP) cho biết: Từ 10/3, Công ty đã điều chỉnh mức giá sữa thu mua của người dân thêm 500 đồng/kg. Để chia sẻ khó khăn với người chăn nuôi bò sữa, Công ty đã tổ chức các lớp tập huấn về kỹ thuật chăn nuôi đảm bảo tiết kiệm thức ăn mà vẫn hiệu quả và cam kết đầu ra ổn định cho sản phẩm.
Thắng Văn http://www.thanhnien.com.vn/Pages/20110325/Vinamilk-tang-gia-mua-sua-bo-nong-dan-mien-Bac.aspx (CN) Thanh Niên, 25/03/2011 Vinamilk tăng giá mua sữa bò nông dân miền Bắc
Ngày 24.3, Công ty sữa Vinamilk đã bắt đầu tăng giá thu mua sữa cho các hộ nông dân 800 đồng/kg, tăng phí dịch vụ hỗ trợ các trạm trung chuyển 200 đồng/kg, tổng cộng tăng thêm 1.000 đồng/kg. Chính sách này được áp dụng cho tất cả các hộ nông dân và tổ chức chăn nuôi bò sữa tại khu vực Hà Nội và các tỉnh phụ cận. Giá thu mua mới sữa bò tươi nguyên liệu của Vinamilk là 13.000 đồng/kg (tăng khoảng 8,5%).
Quang Thuần http://www.ktdt.com.vn/newsdetail.asp?NewsId=290686&CatId=86 (TT) Kinh Tế Đô Thị, 25/03/2011 Phân bón tăng giá: Nông dân thêm“nặng gánh”
Cùng với sự gia tăng nhanh chóng của các chi phí vật tư nông nghiệp, giá phân bón cũng đang tăng lên từng ngày khiến cho người nông dân thêm gánh nặng.
Đầu vào "hất nhào" đầu ra
Thời điểm này, cả nước đang bước vào sản xuất vụ Đông Xuân, ở miền Nam chuẩn bị cho vụ Hè Thu. Do đó, nhu cầu phân bón tăng cao kéo theo giá bán mặt hàng này cũng gia tăng. Tại Hà Nội, hiện cơ bản các huyện ngoại thành đã cấy xong lúa Xuân và bắt đầu vào vụ chăm bón. Chị Nguyễn Thị Mỹ, xóm Gạch, xã Sơn Đồng, huyện Hoài Đức lo lắng: "Giá đạm U rê trắng bây giờ lên tới 10.000 đồng/kg, tăng 3.000 đồng so với trong Tết. Nhà tôi có 1 mẫu ruộng, mỗi lần bón hết 1 tạ đạm, tính ra chi phí tăng thêm 300.000 đồng". Nhiều người trồng rau của xã Song Phương, huyện Hoài Đức cũng tỏ ra lo lắng khi mà giá đầu ra không theo kịp giá phân bón. Chị Lê Thị Hoài, thôn Phương Viên phàn nàn: Từ tuần trước đến nay, cải bắp chỉ bán được từ 1.500 - 2.000 đồng/kg. Chở cả một xe rau ra chợ mới được hơn 100.000 đồng. Trong khi đó, phân bón mỗi ngày một giá. Đơn cử như đạm hạt vàng trước đây chỉ có 11.000 đồng/kg giờ lên 13.000 đồng/kg, lân Lâm Thao từ 4.200 đồng/kg lên 4.700 đồng/kg, lân hạt vàng Đầu Trâu 15.000 đồng/kg…
Chị Hằng, chủ đại lý phân bón Hằng Hướng, ở khu C, xã Song Phương cho biết: Từ 1/3 khi quyết định tăng giá điện có hiệu lực, cộng với sự tăng giá xăng dầu và tỷ giá đồng USD/VNĐ, các mặt hàng phân bón cũng tăng thêm 10%. Điều này gây ảnh hưởng không nhỏ tới sản xuất của người nông dân vì chi phí vật tư nông nghiệp mỗi ngày một tăng.
Theo Bộ NN&PTNT, trong tháng 2/2011 khối lượng phân bón nhập khẩu của nước ta đạt 520.000 tấn, tăng 3% so với cùng kỳ năm ngoái, tuy nhiên về giá trị tăng tới 40%. Hiện nay, sản lượng phân hóa học sản xuất trong nước đạt 6,2 triệu tấn, mới đáp ứng được 68% nhu cầu. Lượng phân bón còn thiếu hụt phải nhập khẩu là 2,6 triệu tấn. Do phải nhập khẩu và phụ thuộc vào nguồn cung bên ngoài nên trong thời gian qua, giá phân bón trong nước chịu tác động lớn từ thị trường thế giới, lên xuống thất thường.
Để bình ổn giá không chỉ là hình thức
Ông Nguyễn Trí Ngọc, Cục Trưởng Cục Trồng trọt (Bộ NN&PTNT) cho biết: Cục đang phối hợp với các doanh nghiệp sản xuất phân bón tiến hành bình ổn giá mặt hàng này. Hướng bình ổn là các doanh nghiệp cam kết mức giá bán chung hợp lý và ngành nông nghiệp sẽ hướng dẫn nông dân sử dụng phân bón một cách tiết kiệm, hiệu quả. Ông Ngọc cũng khẳng định, nguồn cung phân bón cho vụ Đông Xuân và sản xuất nông nghiệp của cả năm 2011 là không thiếu. Còn về chất lượng, hiện Cục Trồng trọt đã chỉ đạo tăng cường quản lý chất lượng phân bón, đặc biệt là ở các cơ sở sản xuất để nâng cao chất lượng trước khi cung ứng ra thị trường. Hiện nay, Luật tiêu chuẩn và quy chuẩn chất lượng đã có thời gian hiệu lực. Các doanh nghiệp sản xuất phân bón phải tự công bố tiêu chuẩn chất lượng phân bón của mình và phải tự chịu trách nhiệm về chất lượng đó.
Vừa qua, Chính phủ cũng đã đưa phân bón vào danh mục các mặt hàng thiết yếu thuộc diện bình ổn giá. Tuy nhiên, theo đánh giá của nhiều chuyên gia và doanh nghiệp thì việc làm này còn mang nặng tính hình thức. Do đó, trong thời gian tới, để nhanh chóng bình ổn thị trường phân bón trong nước, việc chủ động nguồn dự trữ phân bón trong nước có vai trò rất quan trọng. Dự kiến, Bộ Công Thương sẽ trình Chính phủ ban hành quy định yêu cầu các doanh nghiệp sản xuất, nhập khẩu phân bón phải duy trì một lượng hàng dự trữ bắt buộc. Các doanh nghiệp này sẽ nhận được những hỗ trợ từ Nhà nước thông qua chính sách ưu đãi về thuế, tín dụng, ưu tiên kho bãi hay tiếp cận nguồn cung ngoại tệ…
Một trong những biện pháp nữa để bình ổn giá phân bón là tăng cường năng lực của hệ thống phân phối đảm bảo cho phân bón lưu thông thông suốt từ sản xuất, nhập khẩu tới tay người tiêu dùng, giảm bớt chi phí trung gian không cần thiết. Trước mắt, Cục Trồng trọt khuyến khích các doanh nghiệp và các địa phương thực hiện bình ổn giá thông qua các đợt bán hàng trực tiếp tới tận tay người tiêu dùng với giá hợp lý.
Thắng Văn http://tuoitre.vn/Kinh-te/430441/Nong-dan-che-tao-may-vat-hat-dieu.html (3N-em lay hinh) Tuổi Trẻ, 25/03/2011 Nông dân chế tạo máy vặt hạt điều
Sau hơn ba năm nghiên cứu, anh Ngô Ngọc Quang, ngụ xã Tiến Thành, huyện Bù Đốp, tỉnh Bình Phước, đã chế tạo thành công máy vặt hạt điều công suất lớn giúp nông dân trồng điều giảm bớt công sức, chi phí trong thu hoạch điều.
Anh Ngô Ngọc Quang bên chiếc máy vặt hạt điều do mình chế tạo - Ảnh: BÙI LIÊM
Chiếc máy vặt hạt điều do anh Quang chế tạo có hệ thống trượt vặt với mười thanh trục có các loại rãnh xoắn khác nhau. Máy có trọng lượng gần 100 kg, cao 1,2 m, gồm các bộ phận như: khung máy, máng đựng, trục xoắn, hệ thống lô vặt và chạy bằng máy nổ loại nhỏ có thể tháo rời. Hạt điều sau khi vặt bằng máy rất sạch, không còn cùi và không bị giập.
Anh Quang cho biết trong một giờ máy có thể vặt được 300 kg hạt điều mà chỉ tốn hơn 1,5 lít dầu.
BÙI LIÊM http://www.baobinhthuan.com.vn/vn/default.aspx?cat_id=510&news_id=37856#content (TT-Binh Thuan-em lay hinh) Báo Bình Thuận, 25/03/2011 Bắc Bình (Bình Thuận): Chuyển đổi cây trồng, đem lại hiệu quả kinh tế
Chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên các vùng đất thích hợp bước đầu đã đem lại hiệu quả kinh tế cho bà con nông dân ở huyện miền núi Bắc Bình (Bình Thuận) trong thời gian gần đây; lợi nhuận thu được gấp 2 – 3 lần trồng loại cây màu quen thuộc trên cùng loại đất… Điển hình như mô hình trồng hành lấy củ ở xã ven biển Hòa Thắng (thông qua 2 hộ ông Phạm Thanh Tùng, Nguyễn Giai và một số nông dân địa phương) cho thấy, chuyển đổi trồng hành lấy củ trên vùng đất cát khu Lê, xã Hòa Thắng đạt hiệu quả kinh tế cao. Cụ thể, năng suất hành đạt từ 13 - 13,5 tạ/sào, với giá bán hiện tại 10.000 - 11.000 đồng/kg; sau khi trừ chi phí 5,5 triệu đồng, lợi nhuận thu được 8 - 10 triệu đồng/sào/vụ. Từ kết quả chương trình trồng hành lấy củ, Trạm Khuyến nông Bắc Bình đang hướng dẫn bà con nhân rộng mô hình, mở rộng sản xuất trồng hành ở xã Hòa Thắng và các xã lân cận có điều kiện thổ nhưỡng thích hợp; cũng như trồng luân canh các cây thực phẩm ngắn ngày khác phù hợp với vùng đất cát khu Lê như: dưa leo, dưa lấy hạt, đậu các loại… để đạt hiệu quả kinh tế cao hơn. Theo đó, nông dân xã Hòa Thắng đã thu hoạch trúng một mùa đậu phụng với diện tích hơn 900 ha, nhiều nhất là khu vực đất cát thuộc thôn Hồng Lâm. Bà con cho biết, nhờ gieo trồng đúng thời vụ, áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, năng suất đậu phụng đạt từ 1,5 - 1,7 tấn/ha. Với giá thu mua đậu phụng 20.000 - 22.000 đồng/kg, nông dân thu lãi 20 triệu đồng/ha, sau khi trừ chi phí…
Trồng sen lấy củ
Còn tại xã miền núi Hải Ninh, mô hình trồng 5 ha sen lấy củ trên đất ruộng khu vực Bàu Đá Trâu cũng đem lại hiệu quả kinh tế khá cao. Sau 3 tháng trồng, mỗi sào sen thu được gần 800 kg củ sen (2 - 3 củ/kg); được thương lái thu mua trên 10.000 đồng/kg, trừ chi phí, nông dân có lãi 6 triệu đồng/sào; gấp 2 - 3 lần trồng lúa. Riêng mô hình thí điểm trồng tre lấy măng (giống Bát Độ) gần 1 ha trên vùng đất nà ven sông, suối ở 3 xã Phan Thanh, Sông Bình, Bình An (hộ tham gia được hỗ trợ 60% giống, 40% chi phí phân bón); sau 3 tháng tre cao 2 m, phát triển tốt. Nông dân các địa phương trên cũng đang nhân rộng cây trồng này…
Thụy Khanh http://www.baoquangnam.com.vn/kinh-te/nong-nghiep-nong-thon/29558-doi-giong-dua-san-pham-cut-duong-tieu-thu.html (TC-emlay hinh) Báo Quảng Nam, 25/03/2011 Đổi giống dưa - Sản phẩm “cụt” đường tiêu thụ
Thời điểm này, các ruộng dưa hấu trên địa bàn tỉnh Quảng Nam đã đồng loạt xuất bán. Thế nhưng, do thiếu thông tin về nguồn giống mới, không ít hộ nông dân ở xã Điện Minh (Điện Bàn) như… ngồi trên lửa vì sản phẩm bị thị trường từ chối.
Dẫn chúng tôi lội khắp đồng dưa đã đến kỳ thu hoạch, anh Trần Cảnh Nam (thôn Khúc Lũy, xã Điện Minh) cho biết: “Vụ đông xuân gia đình tôi đầu tư sản xuất 10 sào dưa hấu Trang Nông. Theo ước tính, mỗi sào cho sản lượng hơn 1 tấn quả; thời điểm này với giá bán bình quân 7.000 đồng/kg thì có thể thu chừng 70 triệu đồng (trong khi chi phí đầu tư khoảng 20 triệu đồng). Thế nhưng, mấy ngày nay, nhiều chủ buôn lớn đến xem ruộng rồi lắc đầu không mua vì giống dưa Trang Nông TN 1050 (gọi tắt TN 1050) không thể xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc. Họ chỉ chấp nhận mua mỗi ký với giá 1.500 đồng để tiêu thụ nội địa”.
Chọn nhầm giống, nhiều hộ trồng dưa hấu đang… ôm nợ!
Cũng như anh Nam, nhiều hộ dân khác ở xã Điện Minh cũng đang điêu đứng trước tình cảnh này. Đứng nhìn 12 sào dưa hấu chín rộ, ông Tăng Lộc (ở thôn Đồng Thạnh) than: “Từ trước đến nay, cứ vụ đông xuân là tôi mua giống TN 12 về trồng đại trà. Đầu vụ này giống ni hết, nghe cán bộ kỹ thuật của Công ty TNHH Trang Nông (trụ sở chính đóng tại TP.Hồ Chí Minh - P.V) bảo giống TN 1050 có chất lượng y hệt giống TN 12 nên tôi tin và mua về sản xuất. Nhưng gần nửa tháng nay kêu thương lái đến bán, tất cả đều từ chối”.
Hiện giống dưa TN 12 rất được thị trường Trung Quốc ưa chuộng. Vì vậy, các chủ buôn lớn lùng sục khắp địa bàn tỉnh tìm mua giống này với giá cao, bình quân mỗi ký khoảng 7 - 8 nghìn đồng. Ngược lại, cũng là giống Trang Nông nhưng loại dưa TN 1050 lại không tìm được chỗ đứng trên thị trường xuất khẩu. Do đó nông dân đã bị ép giá xuống còn 1.500 đồng/kg. Theo tính toán của nhiều hộ trồng giống dưa TN 1050, nếu họ chấp nhận bán với giá ấy thì mỗi sào lỗ ít nhất khoảng 600 nghìn đồng vốn đầu tư (chưa kể đến công chăm sóc). Nhưng, hiện tại nhiều ruộng dưa TN 1050 đã chín đồng loạt, nếu không bán thì chỉ cần vài cơn mưa nhỏ là sẽ thối hết.
Trước tình trạng này, nhiều hộ trồng dưa ở xã Điện Minh đã gửi đơn yêu cầu Công ty TNHH Trang Nông nhanh chóng chứng thực nguồn gốc và tiến hành kiểm nghiệm chất lượng giống dưa TN 1050 nhằm giúp họ tìm được đầu mối tiêu thụ. Ông Trần Bường - Quyền Chủ tịch UBND xã Điện Minh cho biết, vụ đông xuân này, nông dân trên địa bàn canh tác khoảng 100 sào dưa hấu, tập trung chủ yếu tại 2 thôn Khúc Lũy và Đồng Thạnh. Theo ông Bường, trong số diện tích vừa nêu thì có hơn 40% sản xuất bằng giống TN 1050.
VĂN SỰ - QUANG VIỆT 10 http://baoquangnam.com.vn/kinh-te/thoi-su-kinh-te/29550--co-the-kiem-soat-dich-benh-tren-tom-nuoi.html (TS-Quang Nam) Báo Quảng Nam, 25/03/2011 Quảng Nam: Có thể kiểm soát dịch bệnh trên tôm nuôi
Chi cục Nuôi trồng thủy sản Quảng Nam vừa tổng kết việc thực hiện Dự án “Đảm bảo an toàn dịch bệnh, an toàn môi trường và an toàn thực phẩm có nguồn gốc từ nuôi trồng”, áp dụng đối với tôm nuôi.
Năm 2010, dự án đã được triển khai tại Tam Xuân 1 (Núi Thành), Tam Thăng (Tam Kỳ) và Bình Nam (Thăng Bình). Nhờ kiểm soát tốt chất lượng con giống, giám sát môi trường, mầm bệnh trong ao nuôi cũng như hướng dẫn các hộ nuôi thực hiện các biện pháp kỹ thuật..., tôm nuôi tại các địa phương đã phát triển tốt, dịch bệnh không xảy ra. Hiệu quả của dự án cho thấy hoàn toàn có thể kiểm soát được dịch bệnh trong nuôi tôm.
N.Q.VIỆT http://www.nongnghiep.vn/nongnghiepvn/vi-VN/61/158/2/2/2/75851/Default.aspx (TS-em lay hinh-Trầy vẩy nuôi cá rô đầu vuông) Nông Nghiệp VN, 25/03/2011 Trầy vẩy nuôi cá rô đầu vuông
Con cá rô đầu vuông ở ĐBSCL đang tái diễn kịch bản của cá tra khi người nuôi chạy theo phong trào thần tốc, giờ rơi vào bi kịch thê thảm. Nhiều người thua lỗ cá tra chuyển sang nuôi cá rô đầu vuông với hy vọng gỡ gạc lại càng tuyệt vọng.
Ông Tư Thể, người nuôi cá ở cù lao Tân Lộc, xã Tân Lộc, quận Thốt Nốt, TP Cần Thơ cá nói: Hiện tại, cá rô loại 5 - 6 con/kg giảm chỉ còn 18.000 đồng/kg, trong khi đó giá thành sản xuất là 21.000 - 22.000 đồng/kg, bình quân mỗi kg cá rô người nuôi lỗ 3.000 - 4.000 đồng/kg. Nhiều người thua lỗ cá tra chuyển sang nuôi cá rô với hy vọng gỡ gạc lại càng trong tuyệt vọng. Hiện tại con cá rô đầu vuông đã làm người nuôi cá lâm nợ thêm ít nhất từ 150 - 200 triệu đồng/ao. Rất nhiều hộ thu hoạch cá rô xong là... treo ao.
Ông Nguyễn Văn Khải, ở ấp 5, xã Vĩnh Thuận Tây, huyện Vị Thủy, Hậu Giang là người đầu tiên phát hiện, nhân giống cá rô đầu vuông cho biết: Cách nay 5 tháng cá rô đầu vuông loại 10 con/kg có giá đến 32.000 đồng/kg, nay chỉ còn 19.000 đồng/kg nhưng rất khó bán. Nhiều hộ thu hoạch cá rô đầu vuông vụ này đều thua lỗ vài chục đến cả trăm triệu đồng. Hiện tại, bà con thu hoạch xong một là bỏ ao hai là mướn người vào ban ao trồng lúa trở lại.
Những ai muốn thả nuôi cá trở lại thì cũng không có vốn để đầu tư. Các đại lý thức ăn không dám bán ghi nợ cho người nuôi cá rô đầu vuông. Nguyên nhân cá rớt giá chính là do bà con nông dân phát triển tự phát và thiếu sự khuyến cáo quy hoạch của ngành chức năng. Mặt khác, ở các tỉnh Đồng Tháp, An Giang, Vĩnh Long... nhiều nông dân từng nuôi cá tra bị thua lỗ đã chuyển sang nuôi cá rô đầu vuông trong ao cá tra. Sản lượng mỗi ao phải tính đến trăm tấn, sản lượng tăng nhanh nhưng thị trường tiêu thụ nội địa có hạn, chưa thể chế biến, không xuất khẩu nên dẫn đến thừa. Cá thương phẩm giảm đã kéo cá bố mẹ từ 700.000 - 800.000 đồng/con giảm còn 50.000 đồng/con.
Ông Trương Phú Quốc, Chủ nhiệm HTX dịch vụ, thủy sản và nông nghiệp Thuận Tiến (ấp 5, xã Vĩnh Thuận Tây, Vị Thủy, Hậu Giang) nói trong thất vọng: Con cá tra hại con cá rô đầu vuông. Ao cá rô đầu vuông đã 6,5 tháng tuổi nhưng vẫn chưa bán được mặc dù đã kêu thương lái bán từ lúc cá 4 tháng tuổi. Ông Quốc nhẩm tính: Ước sản lượng khoảng 7 tấn nếu bán được ngay lúc này thì lỗ khoảng 30 triệu đồng, còn không bán được sẽ tiếp tục lỗ vì hiện tại mỗi ngày phải tốn khoảng 2 triệu đồng thức ăn.
Hiện tại, ông đang chọn giải pháp cho ăn cầm chừng để tìm thương lái. Không chỉ ông mà 10 xã viên trong HTX cũng như nhiều bà con trong ấp đang lâm nạn như nhau. Cá đã quá tuổi thu hoạch mà kêu thương lái bán không được. Nếu như 2010, thương lái tranh mau và đặt cọc trước 10 - 20 triệu đồng/ao thì nay chỉ đặt cọc 1 - 2 triệu đồng/ao, nếu giá thị trường giảm thì ngay lập tức họ bỏ cọc.
Anh Tám, thương lái chuyên giao cá rô tại chợ đầu mối Bình Điền, TP.HCM cho biết: Mấy ngày trước tôi đặt cọc mua cá của bà con giá 19.500 đồng/kg loại cá 3 phân trở lên nhưng sáng 24/3 nhận được tin giá cá tại chợ đầu mối tiếp tục giảm nên tôi đã chọn giải pháp bỏ tiền đặt cọc. Cá rô miền tây không cạnh tranh được con cá rô ở Long An, Đồng Nai, nguyên do con đường vận chuyển từ Hậu Giang về Sài Gòn chậm hơn con cá 2 tỉnh trên. Bây giờ cá rô chuyển lên Sài Gòn quá 22 giờ tối là coi chừng dội chợ vì bạn hàng đã mua cá của Long An, Đồng Nai.
Ông Quốc nói: Người dân nuôi cá rô đầu vuông dọc theo con kênh Giải Phóng thuộc ấp 3, xã Vĩnh Thuận Tây nay đang lâm nợ lớn. Để thả nuôi cá rô trên diện tích 1.000 m2 mặt nước trong vòng 4 tháng thì phải cần số vốn khoảng 200 triệu đồng. Để có vốn bà con đã mang sổ đỏ thế chấp cho ngân hàng vay ít nhất vài chục triệu đến vài trăm triệu đồng. Chính bản thân tôi cũng đã thế chấp sổ đỏ 2 ha để vay 300 triệu đồng nuôi 3 ao cá rô và đợt này thua rồi, không thể gỡ được nợ. Với giá hiện tại đã làm cho người nuôi bị lỗ từ 3 - 5 triệu đồng/tấn.
Đau đớn nhất là những hộ có vài công đất sản xuất lúa cũng đào ao nuôi cá rô. Bây giờ thua lỗ không còn đất sản xuất lúa, ao thì bỏ cho cỏ mọc, còn khoản nợ ngân hàng thì đang bí cách trả. Bi kịch hơn nữa là có những hộ đào cả một phần đất thổ cư để làm ao nuôi cá rô bây giờ muốn lấp ao lại thì không có tiền để mướn lao động. Bà con rất mong nhà nước có giải pháp cứu dân bằng cách giãn nợ ngân hàng để bà con tìm cách trả nợ.
Tốc độ phát triển của con cá rô đầu vuông là khá thần tốc. Theo thống kê chỉ sau 2 năm diện tích nuôi cá rô ở tỉnh Hậu Giang tăng gấp 10 lần. Từ vài chục ha ban đầu thì hiện nay đã tăng lên 250 ha. Trước cảnh cá rô đầu vuông rớt giá thê thảm này, ông Trần Công Chánh, Chủ tịch UBND tỉnh đã yêu cầu huyện Vị Thủy cũng như các địa phương trong tỉnh tiến hành kiểm tra, rà soát tình hình nuôi cá rô đầu vuông trong dân. Đồng thời, kết hợp với ngành nông nghiệp nhanh chóng quy hoạch vùng nuôi cá rô đầu vuông. Hạn chế tình trạng người dân thả nuôi ồ ạt không theo quy hoạch.
Ông Huỳnh Thanh Bình, Chủ tịch UBND xã Vĩnh Thuận Tây, Vị Thủy, Hậu Giang cho biết: Con cá rô đầu vuông dội chợ, giá giảm mạnh đã làm cho người nuôi rơi vào cảnh khốn khó. Hiện tại, cá rô đến tuổi thu hoạch vẫn còn tồn đọng rất lớn. Càng nuôi càng lỗ nặng vì giá thức ăn tăng cao.
THANH PHONG http://www.vietnamplus.vn/Home/Chu-trang-trai-bi-phat-3-nam-tu-giam-vi-buon-ho/20113/82910.vnplus (CN-em lay hinh) Việt Nam Plus, 25/03/2011 Chủ trang trại bị phạt 3 năm tù giam vì buôn hổ
Hổ bị nuôi nhốt tại trang trại Thanh Cảnh. (Ảnh: ENV cung cấp.)
Ngày 25/6, Trung tâm Giáo dục Thiên nhiên cho hay ông Huỳnh Văn Hai, chủ trang trại hổ lớn thuộc khu du lịch Thanh Cảnh, Bình Dương đã bị tuyên phạt 3 năm tù giam vì tội buôn bán hổ trái phép.
Cùng chung cảnh ngộ với ông chủ trang trại nuôi hổ, 14 người khác có liên quan cũng bị phạt từ 18 - 30 tháng tù giam gữ, án treo. Ngoài đó ra, ông Hai và hai đối tượng khác còn phải nộp phạt tổng số tiền lên tới hơn 1,4 tỷ đồng.
Qua điều tra, một nhân viên tại Khu du lịch Thanh Cảnh, hiện đang đóng cửa cho biết, hiện cũng có khoảng 10 cá thể gấu được dùng để trích hút mật và bán cho du khách trong và ngoài nước. Thêm vào đó có nhiều cá thể động vật hoang dã khác và một nhà hàng nằm trong khuôn viên cũng phục vụ nhiều món ăn chế biến từ động vật hoang dã.
Ông Trần Việt Hưng, Phó Giám đốc Trung tâm giáo dục Thiên nhiên cho biết: "Khu du lịch Thanh Cảnh là một trong 8 cơ sở nuôi hổ tư nhân ở Việt Nam. Trong chương trình điều tra về buôn bán hổ năm 2010 của Trung tâm Giáo dục Thiên nhiên, khu du lịch Thanh Cảnh là một trong ít nhất hai cơ sở bị nghi ngờ là có liên quan tới việc bán các cá thể hổ sinh ra tại trang trại, không có nguồn gốc hợp pháp. Đây là một bước tiến lớn trong nỗ lực nhằm ngăn chặn nạn buôn bán hổ trái phép ở Việt Nam và các cơ quan chức năng tỉnh Bình Dương. Đã đến lúc cần phải chấm dứt các hoạt động buôn bán hổ trái phép bằng cách tăng cường thực thi pháp luật và xử lý hình sự các đối tượng chủ chốt trong các đường dây buôn bán".
"Các cơ quan chức năng nên tập trung điều tra các đối tượng là mắt xích chính trong đường dây buôn bán hổ. Các đối tượng này có thể nuôi nhốt và bán các cá thể hổ từ các trang trại của họ ở Việt Nam hoặc vận chuyển bất hợp pháp từ Lào hoặc các nước khác", ông Hưng nói thêm.
Theo Trung tâm Giáo dục Thiên nhiên Việt Nam, hiện có khoảng 100 cá thể hổ đang được nhân nuôi tại Việt Nam trong đó 81 cá thể thuộc 8 trại tư nhân, số còn lại là từ các vườn thú và trung tâm cứu hộ của nhà nước.
Hiện nay, có ít nhất 3 trang trại hổ có liên quan tới việc buôn bán hổ bất hợp pháp. Tuy không có bằng chứng từ các trang trại khác nhưng đã có trường hợp hổ chết tại các trang trại này và được nấu làm cao.
Cao hổ được làm từ xương hổ, trộn lẫn với xương của một số động vật khác. Một lạng cao hổ có giá từ 900 - 1.200 đô la Mỹ.
Chi phí nuôi một con hổ cho tới khi có thể bán được là khoảng 3.455 USD. Tuy nhiên khi nấu thành cao rồi thì có giá khoảng 20.000 USD.
Cẩm Thơ http://sgtt.vn/Tieu-dung/142190/Thit-ga-tang-gia-gan-70-trong-hon-mot-tuan.html (CN) Sài Gòn Tiếp Thị, 25/03/2011 Thịt gà tăng giá gần 70% trong hơn một tuần
Hơn tuần nay, giá gà công nghiệp đột ngột tăng mạnh. Theo các đầu mối chăn nuôi và giết mổ gia cầm, so với hồi giữa tháng 3, giá gà lông tăng tới gần 70%, từ 22.000 đồng/kg lên 37.000 đồng.
10 giờ sáng 24.3, ông Nguyễn Mạnh Thắng, giám đốc công ty giết mổ Mạnh Thạnh (trung tâm giết mổ gia cầm An Nhơn, TP.HCM) tiếp tục nhận thông báo tăng giá gà lông trắng công nghiệp thêm 1.000 đồng/kg từ phía đầu mối cung cấp hàng. Theo ông Thắng, kể từ ngày 15.3 đến nay, ngày nào giá gà lông về đến lò mổ cũng tăng. “Bữa ít thì một ngàn, nhiều thì hai, thậm chí là ba, bốn ngàn đồng”, ông Thắng nói.
Giá cao
Cũng trong sáng ngày 24.3, thịt gà công nghiệp nguyên con bán sỉ tại các lò mổ tăng thêm 1.000 đồng, lên 45.000 đồng/kg so với ngày hôm trước. Giá bán lẻ trên thị trường 50.000 - 51.000 đồng/kg, cao 24% so với giá các doanh nghiệp đăng ký bình ổn. Các sản phẩm pha lóc như cánh, đùi góc tư, đùi tỏi có giá từ 60.000 - 75.000 đồng/kg tùy loại, cao nhất kể từ đầu năm đến nay.
Qua khảo sát, sức tiêu thụ trên thị trường vẫn khá chậm. Tại chợ lẻ, các sạp thường bán gà công nghiệp dưới dạng pha lóc ra cánh, đùi, ức, mình và cũng giống như gian hàng thịt heo, có ít người tới hỏi mua. Chị Hiền, chủ cửa hàng Hà Hiền trên đường Vũ Tùng, ngay góc chợ Bà Chiểu, quận Bình Thạnh cho rằng, thịt gà tăng giá không phải do khan hiếm nguồn cung hay sức mua tăng. “Ngày nào đầu mối cũng điều chỉnh giá, nhưng hàng vẫn đưa về ổn định chứ không thấy thiếu hụt gì”, chị Hiền nói.
Người nuôi vẫn thấp thỏm
Từ giữa tháng 3 đến nay, ông Nguyễn Quốc Trung, tổng giám đốc công ty Japfa cho biết sức tiêu thụ thịt gà công nghiệp tại thị trường phía Nam, nhất là TP.HCM vẫn không có gì biến động. Trung bình mỗi ngày, Japfa đưa ra thị trường khoảng 50.000 con, C.P trên 120.000 con và Emivest xấp xỉ 33.000 con. Ông Phan Văn Thảo, chi cục trưởng chi cục Thú y thành phố cũng cho biết, số lượng thịt gà tiêu thụ tại TP.HCM ổn định ở mức 120.000 con/ngày đêm.
Ông Trung cũng như nhiều người kinh doanh trong ngành cho rằng, gà công nghiệp tăng giá chủ yếu do tác động từ các yếu tố đầu vào như giá thức ăn, điện, xăng dầu, lãi suất tăng cao trong thời gian gần đây. “Cùng thời điểm này năm ngoái, giá cám nuôi gà có 8.200 - 8.500 đồng/kg, nhưng bây giờ nông dân phải mua gần 11.000 đồng”, ông Long, chủ trại gà công nghiệp quy mô 200.000 con ở Bà Rịa - Vũng Tàu nhẩm tính.
Với mức giá bán tại trại 35.000 đồng/kg như hiện nay, tính ra mỗi con gà xuất chuồng trọng lượng 2,5 kg, doanh nghiệp có lãi gần 18.000 đồng. Ông Nguyễn Quốc Trung thừa nhận mức lợi nhuận trên thuộc loại cao. Ông Trung nói thêm: “Thời gian qua, tính ổn định đối với chăn nuôi gà rất thấp, có lúc giá giảm dưới chi phí, có lúc lại mang đến lợi nhuận cao. Chỉ những doanh nghiệp chăn nuôi khép kín từ đầu vào đến đầu ra mới có lời, còn nông dân nuôi nhỏ lẻ thường thua lỗ nhiều hơn thắng”. Theo khảo sát thì hầu hết người chăn nuôi hiện không còn gà bán do trước đó, giá quá thấp nên họ bị thua lỗ, không còn vốn tái đầu tư.
Ngoài các yếu tố chi phí đầu vào, mặt bằng giá thực phẩm vài tuần gần đây tăng cao cũng tác động dây chuyền lên thịt gà. Tại thị trường TP.HCM, lượng thịt gà tiêu thụ chỉ đứng sau thịt heo với trung bình khoảng 180 tấn/ngày so với 500 tấn/ngày. Khoảng hai tuần gần đây, thị trường cũng chứng kiến giá thịt heo tăng, thịt bò, cá đồng, cá biển đều tăng. Vì vậy, việc thịt gà công nghiệp tăng theo giá mặt bằng thực phẩm chung là khó tránh khỏi.
HOÀNG BẢY http://www.baodongthap.com.vn/newsdetails.aspx?id=223&newsid=8896 (TT-Dong Thap) Báo Đồng Tháp, 25/03/2011 Tam Nông (Đồng Tháp): Trồng màu chống hạn
Nhằm giúp người dân có những giống cây trồng thích nghi với thời tiết khô hạn, chủ động nguồn nước cho tưới tiêu trong vụ hè - thu, ngành Nông nghiệp huyện Tam Nông (Đồng Tháp) đã tổ chức hướng dẫn cho nông dân chuyển đổi trồng các giống màu với tổng diện tích trên 100 ha tại các xã: An Hòa, Phú Cường, Phú Đức, Tân Công Sính...
Trong đó, mè là loại được thử nghiệm trên địa bàn huyện với những tính năng nổi trội chống chọi tốt trong thời tiết khô hạn, thuận lợi cho mùa khô, lợi nhuận đảm bảo, thời gian sản xuất ngắn.
Đây là một trong những mục tiêu nằm trong kế hoạch thực hiện chống khô hạn đảm bảo đủ nguồn nước cho sản xuất nông nghiệp trên địa bàn huyện, tuy nhiên người dân vẫn chưa mặn mà với mô hình trồng mè vì chưa thấy được những hiệu quả thiết thực, trong thời gian tới, ngành Nông nghiệp huyện sẽ tiếp tục tổ chức những buổi hội thảo, hướng dẫn kỹ thuật trồng cho người dân.
K.D http://www.baothaibinh.com.vn/4/4758/Phat_trien_manh_kinh_te_VAC_.htm (3N-Thai Binh-em lay hinh) Báo Thái Bình, 25/03/2011 Thái Thụy (Thái Bình): Phát triển mạnh kinh tế VAC
Thái Thụy được đánh giá là huyện có tốc độ phát triển kinh tế VAC khá nhanh và mạnh của tỉnh Thái Bình. Điều này có được là do những năm qua Hội làm vườn (HLV) huyện đã đẩy mạnh các hoạt động hỗ trợ về vốn, giống, chuyển giao các tiến bộ khoa học kỹ thuật, giúp hội viên xây dựng mô hình mới, cho hiệu quả kinh tế cao. Qua đó, nhiều nông dân đã tự học được cách làm giàu hiệu quả, tạo thêm nhiều việc làm cho lao động khác.
Nuôi cá vược - hướng đi hiệu quả trong phát triển kinh tế VAC ở Thái Thụy
Một ngày đầu năm có mặt tại mô hình kinh tế VAC của anh Trần Ngọc Hiếu (xã Thụy Duyên), đi một vòng quanh trang trại với vườn cây, ao cá, khu nuôi con đặc sản được bố trí khoa học, hợp lý, tôi thực sự khâm phục nghị lực làm giàu của anh.
Khởi nghiệp từ năm 1983 với nghề làm vườn, chăn nuôi, thu mua con đặc sản; đến năm 2006, anh Hiếu nhận đấu thầu 1 ha vùng đất úng trũng của xã cải tạo, đào 0,5 ha ao nuôi ba ba, cá các loại, xây 3 ô chuồng nuôi cá sấu, kỳ đà, nhím, diện tích còn lại trồng hoa hồng, bưởi Diễn, ươm giống cây với tổng số vốn đầu tư khoảng 4 tỷ đồng. Bình quân, mỗi năm trang trại xuất ra thị trường khoảng 60 tấn cá sấu, 2 tạ ba ba, 4 tạ kỳ đà, gần chục tấn cá, không kể cây con giống, hoa quả các loại.
Năm 2010, doanh thu của gia đình anh đạt gần 3 tỷ đồng, tạo công ăn việc làm thường xuyên cho 15 lao động với mức lương bình quân từ 1,5 đến 2 triệu đồng/người/tháng. Không chỉ làm VAC giỏi, hiện anh đảm nhiệm vai trò là chủ tịch HLV xã Thụy Duyên, thường xuyên hướng dẫn kỹ thuật và cách làm kinh tế VAC cho nhiều hội viên khác, đồng thời còn đầu tư vốn, giống, bao tiêu đầu ra cho 50 hộ nuôi vệ tinh cá sấu ở trong và ngoài huyện. Chia tay anh Hiếu, tôi đến thăm gia đình anh Nguyễn Duy Châu, hội viên HLV xã Thụy Thanh.
Trước đây, gia đình anh Châu cũng làm nông nghiệp, thuộc diện nghèo của xã. Sau nhiều trăn trở, anh quyết định đấu thầu 5.000 m2 đất úng trũng khu cánh đồng Hộn của xã xây chuồng trại nuôi 1.300 gà, vịt đẻ, 10 lợn nái, 100 lợn thịt, kết hợp đào ao nuôi cá, cua đồng, diện tích đất trống trồng cây ăn quả. Với cách làm như vậy, năm 2010, hai vợ chồng có nguồn thu 50 triệu đồng sau khi trừ các khoản chi phí.
Anh Hiếu, anh Châu chỉ là 2 trong số hàng trăm gương tiêu biểu, điển hình trong phong trào cải tạo vườn tạp- đất trũng làm kinh tế VAC giỏi, cho hiệu quả kinh tế cao ở Thái Thụy. Toàn huyện hiện có gần 5.000 hội viên HLV.
Thời gian qua, HLV huyện tích cực tuyên truyền, vận động, hướng dẫn cán bộ, hội viên chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, ứng dụng các tiến bộ KHKT mới vào sản xuất nhằm sử dụng tiền vốn, đất đai, lao động đúng mục đích, có hiệu quả. Năm 2010, Hội đã phối hợp với Hội Nông dân huyện đứng ra tín chấp với các tổ chức tín dụng 12,7 tỷ đồng cho hội viên vay; liên kết với các công ty, doanh nghiệp cung ứng hàng trăm tấn phân bón các loại giúp hội viên mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng mô hình.
Các cấp hội từ huyện đến cơ sở đã mở 105 lớp tập huấn kỹ thuật thâm canh lúa, cây màu, cách chăm sóc, phòng trừ dịch bệnh cho đàn gia súc, gia cầm, các đối tượng thủy sản, kỹ thuật chiết ghép, lai tạo các cây có giá trị kinh tế cao... thu hút trên 8.200 lượt cán bộ, hội viên tham gia.
Ngoài ra 27 xã cũng đã tổ chức cho 314 lượt cán bộ, hội viên đi thăm quan, học tập các mô hình điểm về phát triển kinh tế như: HLV xã Thụy Quỳnh đi thăm mô hình trồng khoai lang Nhật ở Ninh Bình; HLV các xã Thụy Bình, Thái Học, Thái Thành đi thăm quan mô hình trồng rau an toàn tại Viện cây lương thực miền Bắc, mô hình nuôi cá rô - cua đồng ở Thường Tín, mô hình nuôi thỏ, nhím ở Ba Vì...
Đặc biệt, Huyện hội đã phối hợp với trường Cao đẳng nghề nuôi trồng thủy sản (NTTS) - T.Ư HLV Việt Nam mở 5 lớp trung cấp nghề NTTS cho 500 hội viên HLV các xã Thụy Trường, Thụy An, Thụy Dũng, Thái Hồng, Thái Thuần. Các hội viên ở các cơ sở hội cũng tự giúp nhau bằng cách cho vay không lấy lãi hàng trăm triệu đồng, bán trả chậm hàng vạn con vịt, gà giống, hàng chục vạn cá giống, tư vấn, hướng dẫn kinh nghiệm hạch toán kinh tế...
Thực tế cho thấy, sau các lớp tập huấn, đi thăm quan học tập mô hình, trao đổi kinh nghiệm cùng với các dịch vụ hỗ trợ đã góp phần thay đổi nếp nghĩ, cách làm trong phát triển kinh tế VAC của nhiều nông dân ở Thái Thụy. Họ mạnh dạn tiếp thu, ứng dụng các tiến bộ KHKT mới vào sản xuất, thâm canh, đi đầu thực hiện các dự án chuyển đổi vùng úng trũng nội đồng, vùng đầm bãi ven sông, ven biển sang NTTS. Theo thống kê, toàn huyện hiện có 5.250 gia trại, trang trại mà hầu hết là các mô hình VAC tổng hợp.
Hàng ngàn nông dân nhờ vậy mỗi năm có nguồn thu từ vài chục đến hàng trăm triệu đồng. 5 năm qua, Thái Thụy đã chuyển đổi được 634,9 ha diện tích cấy lúa, làm muối kém hiệu quả sang NTTS cho hiệu quả kinh tế cao như ở: Thái Thủy, Thái Đô, Thái Hồng, cánh đồng Ba Đạc 80... góp phần tạo việc làm, tăng thu nhập cho hội viên. Cùng với đó, phong trào cải tạo vườn tạp trồng cây cảnh, tận dụng đất trống trồng hoè cũng phát triển rộng khắp. Hiện tại, trên đất Thái Thụy có khoảng 100 ngàn cây hoè đang cho thu hoạch, sản lượng năm 2010 ước đạt 38 ngàn tấn, bán được giá nên người nông dân có thêm nguồn thu nhập đáng kể.
Đẩy mạnh các hoạt động hỗ trợ để nhân rộng các mô hình làm kinh tế VAC cho hiệu quả kinh tế cao là hướng đi tích cực của HLV huyện Thái Thụy trong thời gian qua. Chính điều này đã đáp ứng phần nào nhu cầu, lợi ích của hội viên, từ đó thu hút nhiều nông dân tham gia sinh hoạt, làm tăng sự gắn bó giữa hội viên với tổ chức hội, hội viên với phong trào, góp phần quan trọng thúc đẩy kinh tế địa phương phát triển.
Nguyễn Hình 2 http://sgtt.vn/Cac-cuoc-thi/142217/Con-ca-mu-nghe-nang-80kg-sa-luoi.html (TS-em lay hinh) Sài Gòn Tiếp Thị, 25/03/2011 Con cá mú nghệ nặng 80 kg sa lưới
Ngày 23.3, ngư dân đã bắt được từ giàn đáy hàng khơi ở Vũng Tàu một con cá mú nghệ nặng 80 kg và bán lại cho nhà hàng Hàng Dương, quận 4 với giá 250.000 đồng/kg.
Theo ông Hiếu chủ nhà hàng, nhà hàng sẽ phục vụ cho khách giá 500.000 đồng/kg cá mú nghệ này với các món như nướng, hấp, nấu lẩu riêu - măng - ngót và ăn sống mù tạc… Đến chiều 24.3.2011 “đã bán được nửa con rồi”, ông Hiếu nói.
TRẦN VIỆT ĐỨC http://www.nongnghiep.vn/nongnghiepvn/vi-VN/61/158/2/2/2/75830/Default.aspx (CN-em lay hinh-Hướng nuôi vịt mới) Nông Nghiệp VN, 25/03/2011 Hướng nuôi vịt mới
Nuôi vịt chạy đồng là nghề từ lâu đã gắn chặt với cuộc sống của dân miệt đồng vùng ĐBSCL, nhất là hộ nghèo. Tuy nhiên, những năm gần đây, dịch bệnh, nhất là dịch cúm gia cầm đã khiến nhiều hộ nuôi vịt lắm phen khốn đốn. Trong khốn khó, người nuôi vịt đã chuyển đổi hình thức nuôi, đem lại hiệu quả thiết thực.
Liên tiếp từ năm 2004 đến nay, những đợt dịch cúm gia cầm H5N1 đã làm cho nhiều hộ phải bỏ nghề, có hộ phá sản. Nuôi vịt chạy đồng càng khó khăn hơn do phải di chuyển đồng xa, phải đăng ký với ngành thú y để kiểm soát sự an toàn của đàn vịt. Hiện vẫn còn nhiều đánh giá khác nhau về việc phát triển đàn vịt nuôi chạy đồng và ngành thú y cho rằng hình thức nuôi này không an toàn sinh học. Tuy nhiên, vì lợi ích và là nghề lâu đời nên nông dân vẫn còn nuôi. Để duy trì và phát triển nghề nuôi vịt, trong những năm qua, ngành nông nghiệp Vĩnh Long đã thực hiện một số mô hình chăn nuôi vịt theo hướng an toàn sinh học.
Trước hết nuôi nhốt kết hợp chăn thả. Hình thức này thích hợp cho nuôi vịt đẻ trứng. Vịt nuôi nhốt trên bờ kênh, có mở lối cho vịt xuống nước. Đến mùa thu hoạch lúa thì thả vịt ra đồng. Có thể nuôi các giống vịt tàu, siêu trứng, giống lai hướng trứng. Nuôi theo hình thức này vịt có thể kiếm được thức ăn dưới lòng kinh như cá, hến và có thể bổ sung thêm thức ăn tươi (cua, ốc bươu vàng...), thức ăn chế biến sẵn cho chúng.
Bà Tư Lành ở ấp Rạch Rô, xã Trung Chánh, huyện Vũng Liêm (Vĩnh Long) với trên 20 năm trong nghề nuôi vịt. Bà cho biết: trước đây bà nuôi vịt chạy đồng được cán bộ chăn nuôi thú y huyện vận động chuyển sang nuôi nhốt kết hợp thả đồng để hạn chế dịch bệnh. Bà mua lưới mùng, vải bạt làm chuồng che chắn nuôi 2.000 con vịt tàu đẻ. Đây là loại vịt nhỏ con, đầu nhỏ, mỏ khỏe mạnh, cổ dài, chân vàng thấp, nhanh nhẹn, khả năng kiếm mồi tốt và vừa cho thịt vừa cho trứng. Chúng chống chịu tốt với điều kiện chăn thả ngoài đồng.
Đến mùa thu hoạch lúa, bà Tư Lành lùa vịt ra đồng gần nhà cho chúng ăn lúa rụng và những động vật sống ở đồng như cua, ốc, dế... để đỡ tốn thức ăn. Khi đồng sạ lúa thì bà nhốt vịt lại. Hình thức nuôi này đã giúp đàn vịt của bà giảm rõ rệt dịch bệnh và còn kết hợp cho vịt ăn thức ăn tự chế, thức ăn công nghiệp nên vịt tăng trọng nhanh, đẻ tốt. Từ đó đến nay, mỗi năm đàn vịt này sản xuất trên 400.000 trứng (bình quân 200 trứng/con), giá bán tại chỗ 17.000 đ/chục, đem lại nguồn thu từ 500 - 600 triệu đồng, trừ chi phí còn lời trên 200 triệu đồng/năm. Nuôi vịt hướng này đã giúp bà thoát nghèo trở nên khá giả.
Kế đến là hình thức nuôi vịt nhốt hoàn toàn. Nuôi theo hình thức này thì không thả ra kênh, ra đồng. Phần lớn thức ăn cho vịt phải mua, vịt ăn thức ăn nhiều hơn nên giá thành cao. Hình thức này phù hợp trong lúc có dịch cúm, giúp người nuôi kiểm soát tốt dịch bệnh, người chế biến và người tiêu dùng an tâm hơn. Năm 2010, Trung tâm Khuyến nông tỉnh Vĩnh Long đã chuyển giao cho 29 hộ ở 4 huyện Mang Thít, Tam Bình, Vũng Liêm và Trà Ôn nuôi 8.650 con vịt theo hình thức này trong khuôn khổ dự án “Nuôi vịt thịt an toàn sinh học” do Trung tâm KNKN Quốc gia hỗ trợ.
Kết quả cho thấy, vịt nuôi nhanh lớn, dễ chăm sóc và quản lý, không mắc bệnh. Vịt đạt trọng lượng từ 1,5 - 2,6 kg/con... đem lại hiệu quả thiết thực về kinh tế, xã hội và môi trường cho người nuôi. Anh Võ Hoàng Hưng ở ấp Chợ Mới, xã Trung Chánh, huyện Vũng Liêm được dự án hỗ trợ về kỹ thuật nuôi và 250 con vịt giống siêu thịt nuôi theo hình thức nhốt hoàn toàn. Sau 3 tháng, vịt đạt trọng lượng từ 2,5 - 3 kg/con, giá bán 35.000 đ/kg, anh thu được trên 26 triệu đồng, trừ chi phí còn lời khoảng 40% doanh thu.
Nuôi vịt kết hợp nuôi cá. Hình thức này có thể áp dụng ở những cơ sở sản xuất vịt con nuôi thịt. Nuôi vịt trên ao cá, phân vịt thải ra cho cá ăn hoặc tạo nguồn thủy sinh trong ao phát triển làm thức ăn cho cá. Hình thức này giúp giảm đáng kể chi phí dọn chuồng, cung cấp nước uống cho vịt. Đây là hình thức nuôi vịt theo hướng an toàn sinh học.
MỸ TRUNG http://www.baogialai.com.vn/channel/722/201103/Huong-den-mo-hinh-san-xuat-ca-phe-co-chung-nhan-1984526/ (TT-Gia Lai-emlay hinh) Báo Gia Lai, 25/03/2011 Gia Lai: Hướng đến mô hình sản xuất cà phê có chứng nhận
Canh tác cà phê bền vững, sản xuất các sản phẩm có chất lượng cao, an toàn thực phẩm và thân thiện với môi trường là xu thế chung của ngành cà phê hiện nay. Tuy mới triển khai được vài năm nhưng đã có nhiều nông dân và doanh nghiệp cà phê tiếp cận với các loại hình sản xuất cà phê theo quy chuẩn chứng nhận UTZ Certified.
Cà phê là mặt hàng chủ lực chiếm giá trị kim ngạch xuất khẩu lớn trên địa bàn Gia Lai. Toàn tỉnh hiện có khoảng 76.000 ha cà phê, dự kiến diện tích cây cà phê đến năm 2015 là 77.000 ha, trong đó diện tích cho thu hoạch đạt 76.400 ha, sản lượng đạt 177.700 tấn. Đến năm 2020, diện tích cà phê sẽ đạt 80.000 ha, sản lượng hơn 190.000 tấn. Những năm 90 thế kỷ trước, năng suất bình quân 1 ha cà phê kinh doanh đạt rất thấp nhưng gần đây cùng với việc tăng nhanh về diện tích, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất đã làm tăng năng suất cà phê rõ rệt, bình quân 1 ha đạt khoảng 4 - 6 tấn nhân, đặc biệt các vùng sản xuất cà phê có chứng nhận tiêu chuẩn UTZ đạt năng suất cao hơn bình thường.
Ảnh: K.N.B
Không so sánh với “thủ phủ” cà phê Đak Lak nhưng diện tích sản xuất cà phê theo các bộ quy chuẩn (trong đó có UTZ Certified) ở Gia Lai khoảng gần 2.000 ha, chưa đến 3% tổng diện tích, trong khi Đak Lak tỷ lệ này khoảng 8%. Nhiều năm gần đây, một số ít doanh nghiệp và nông dân trồng cà phê đã nhận thức về những quyền lợi khi tham gia sản xuất cà phê có chứng nhận như được hưởng thêm giá thưởng so với quy trình sản xuất cà phê bình thường, được áp dụng các biện pháp canh tác hiệu quả... còn lại đa phần là sản xuất theo kiểu tự phát, manh mún, không theo một mô hình nào cả, dẫn đến năng suất, chất lượng không đồng đều.
Bước đầu, sản xuất cà phê có chứng nhận mang lại hiệu quả, tuy nhiên vẫn còn một số khó khăn. Ông Thái Như Hiệp - Giám đốc Công ty TNHH Vĩnh Hiệp cho biết: “Là doanh nghiệp tư nhân đầu tiên ở tỉnh thực hiện mô hình sản xuất cà phê có chứng nhận với diện tích ban đầu 500 ha triển khai ở huyện Chư Prông, Công ty đầu tư xây dựng dây chuyền chế biến hiện đại, cùng với nguồn vốn đủ mạnh để tham gia liên minh với nông dân. Song, quy trình sản xuất rất chặt chẽ, khắt khe nên ở một số khâu nông dân áp dụng chưa triệt để, làm ảnh hưởng đến chất lượng và năng suất cà phê. Vì vậy, rất cần sự phối hợp chặt chẽ hơn nữa với chính quyền địa phương để dự án mang lại hiệu quả không chỉ về mặt kinh tế mà cả về mặt xã hội, tạo nên chuỗi giá trị trong liên minh”.
Ngoài huyện Chư Prông, Chư Sê là vùng có diện tích cà phê chứng nhận khoảng 1.000 ha ở thị trấn Chư Sê, xã Dun, Ia Hlốp, Al Bá. Theo kinh nghiệm của ông Đoàn Mạnh Tuyên - một nông dân ở thị trấn Chư Sê thì mỗi ha cà phê chứng nhận UTZ Certified có năng suất cao hơn khoảng 15%, giá bán cao hơn khoảng 500 ngàn đồng/tấn so với cà phê sản xuất thông thường, ngược lại chi phí cũng giảm đáng kể từ 15% đến 20%. Tham gia vào dự án này, nông dân được hưởng lợi nhiều thứ, trong đó được hướng dẫn về kỹ thuật chăm sóc, sơ chế, bảo quản… để tăng giá trị cho sản phẩm.
Nhiều nông dân ở các địa phương khác muốn tham gia chương trình phải thông qua tổ chức hay công ty nên khó chủ động. Đó là lý do vì sao cà phê sản xuất có chứng nhận triển khai đã vài năm nhưng diện tích vẫn chưa tăng. Trên thị trường thế giới, cà phê có chứng nhận đã được bán giá cao hơn cà phê sản xuất theo cách lâu nay vẫn làm. Bởi tiêu chuẩn này giúp người mua truy nguyên được nguồn gốc và minh chứng cho sản xuất cà phê có trách nhiệm với môi trường, cộng đồng, chinh phục những thị trường xuất khẩu khó tính như: EU, Mỹ, Hàn Quốc, Nhật Bản…
Mô hình sản xuất cà phê có chứng nhận theo hướng sản xuất bền vững là chiến lược lâu dài mang lại lợi ích thiết thực cho các bên tham gia, nhằm tạo ra chuỗi giá trị kinh tế vượt trội cho mặt hàng cà phê khi đang ngày càng có sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường cà phê toàn cầu.
Thảo Nguyên http://www.ktdt.com.vn/newsdetail.asp?NewsId=290409&CatId=86 (TT-em lay hinh) Kinh Tế Đô Thị, 24/03/2011 Cây trồng biến đổi gen: Lối thoát cho an ninh lương thực
Ngô là loại cây trồng biến đổi gen phổ biến nhất
Năm 2011, cây trồng biến đổi gen đã được trồng và sử dụng rộng rãi tại nhiều quốc gia trên thế giới với những lợi ích thiết thực.
Tuy nhiên tại Việt Nam, diện tích cây trồng biến đổi gen vẫn còn quá khiêm tốn. Để đảm bảo an ninh lương thực (ANLT) và khắc phục những khó khăn ảnh hưởng tới sự phát triển của ngành nông nghiệp, cây trồng biến đổi gen được coi như một giải pháp tối ưu.
29 nước trồng cây biến đổi gen
Tại Hội nghị "Triển vọng toàn cầu của cây trồng biến đổi gen 2010" mới được tổ chức ở Hà Nội, các cơ quan chuyên môn trong lĩnh vực nông nghiệp cho biết: Sau 15 năm đưa vào canh tác (1996 - 2010), diện tích cây trồng biến đổi gen trên thế giới đã tăng 87%, đạt 148 triệu ha. Hiện đã có 29 nước trồng cây biến đổi gen, 30 nước nhập khẩu các sản phẩm cây trồng biến đổi gen, 59 nước phê duyệt sử dụng các loại cây trồng biến đổi gen, hoặc để trồng và nhập khẩu. 5 nước dẫn đầu về diện tích cây trồng biến đổi gen là Trung Quốc, Ấn Độ, Brazil, Argentina và Nam Phi. Riêng tại Brazil, diện tích cây trồng biến đổi gen đạt kỷ lục tới 4 triệu ha, lớn nhất thế giới.
Theo TS. Clive James - Chủ tịch, người sáng lập ra cơ quan Dịch vụ quốc tế về khuyến khích ứng dụng công nghệ sinh học trong nông nghiệp (ISAAA), giá trị toàn cầu của riêng hạt giống cây biến đổi gen đạt 11,2 tỷ USD trong năm 2010 và gần 150 tỷ USD/năm cho các sản phẩm ngô, đậu tương và bông. Cây trồng biến đổi gen đã góp phần tiết kiệm 39 triệu kilogam thuốc trừ sâu, 75 triệu héc ta đất và giúp 14,4 triệu hộ nông dân nhỏ, đa phần là hộ nghèo thoát khỏi đói nghèo.
Tại Việt Nam, theo tính toán của Cục Trồng trọt (Bộ NN&PTNT), trung bình mỗi năm, diện tích đất canh tác bị mất khoảng 70.000 ha. Trong khi mỗi năm, dân số Việt Nam tăng thêm 1 triệu người. Ngoài ra, do phải đối phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng nên an ninh lương thực không bền vững. Do đó, cây trồng biến đổi gen được coi như một giải pháp tối ưu trong việc góp phần bảo đảm an ninh lương thực.
Việt Nam sẽ trồng đại trà
Năm 2010, Việt Nam đã trồng thử nghiệm ngô biến đổi gen ở Văn Giang (Hưng Yên), Long Thành (Bà Rịa - Vũng Tàu) và cho kết quả khả quan. Dự kiến tháng 4/2011, chúng ta sẽ đưa giống ngô này vào trồng thử (khoảng 1 ha), nếu kết quả ổn định sẽ đưa ra trồng đại trà vào năm 2012. Các chuyên gia kỳ vọng, đến năm 2015, ngô biến đổi gen sẽ phủ được 15 - 30% trong tổng diện tích 1 triệu héc ta trồng ngô ở Việt Nam. Theo nhận định, với điều kiện khí hậu ở nước ta, cây trồng biến đổi gen có ưu điểm nổi trội là có khả năng chống lại một số loại sâu bệnh, nhất là sâu đục thân. Ưu điểm thứ hai là cây biến đổi gen có khả năng chống chịu thuốc diệt cỏ. Do đó, trồng cây biến đổi gen vừa giảm chi phí đầu vào, vừa tăng năng suất.
Tuy nhiên, một số vấn đề được coi là trở ngại đối với cây trồng biến đổi gen ở nước ta là những vướng mắc về pháp lý và hạn chế về công nghệ trong việc nghiên cứu, khảo nghiệm. Hiện thông tư về hướng dẫn sử dụng sản phẩm từ cây trồng biến đổi gen cho chăn nuôi đang được Bộ NN&PTNT tiến hành xây dựng. Theo Vụ trưởng Vụ Khoa học Công nghệ (Bộ NN&PTNT) Triệu Văn Hùng, để có thể đưa giống mới, công nghệ mới vào trồng thì phải có khung pháp lý rõ ràng như quy định về khảo nghiệm đánh giá an toàn đa dạng sinh học môi trường, an toàn đối với sức khỏe con người. Ngoài ra, cũng cần tuyên truyền cho người dân, đội ngũ cán bộ, tránh tâm lý e ngại khi ứng dụng cây trồng biến đổi gen. Về mặt khoa học, nếu làm theo quy trình an toàn sinh học như hiện nay sẽ bảo đảm an toàn tuyệt đối.
Nam Bắc http://www.baobacgiang.com.vn/11/70770.bgo (CN-Bac Giang-emlay hinh) Báo Bắc Giang, 25/03/2011 Bắc Giang: "Gột" bò lãi cao
Anh Hiếu chăm sóc đàn bò.
Người dân thôn Quảng Mô, xã Phi Mô (Lạng Giang - Bắc Giang) ai cũng biết đến anh Dương Văn Hiếu với nghề "gột" bò mang lại thu nhập cao. Từ nghề này, gia đình anh có khoản lãi từ vài chục triệu đến hàng trăm triệu đồng mỗi năm.
Năm nay anh Hiếu hơn 30 tuổi, kinh nghiệm làm ăn khá dày dặn. Có chút vốn "giắt lưng" sau khi xuất khẩu lao động trở về địa phương năm 2005, anh chọn nghề "gột" lợn để phát triển kinh tế gia đình. Theo đó, anh mua hàng chục con lợn dẫu/lứa, chăm sóc một thời gian ngắn để xuất chuồng. Từ nghề này mà anh có của ăn của để. Tuy nhiên do nhà neo người, nuôi vài chục con lợn mỗi lứa cũng khá vất vả. Nhận thấy nhà mình ở cạnh vùng sản xuất lúa giống, nguồn rơm rạ khá dồi dào thêm vào đó là đồi bạch đàn của gia đình khá rộng phù hợp cho việc chăn thả nên anh chuyển sang "gột" bò. Anh chia sẻ: "Bò chọn mua về gột thường là bò gầy do chủ nuôi không có điều kiện chăm sóc. Một con bò giá thấp cũng khoảng 5 - 6 triệu đồng, còn nhiều thì 15 - 20 triệu. Nếu không may mua phải bò giống địa phương hay bị bệnh thì lỗ lớn. Do đó, làm nghề này phải biết cách chọn bò, xem khoang ăn, khoang lớn ra sao rồi mới quyết định đầu tư". Trong chuồng nhà anh Hiếu luôn có khoảng 7 - 8 con bò/lứa, dịp gần Tết lượng bò thường cao gấp đôi bởi nhu cầu thực phẩm ở thời điểm này tăng mạnh. Vừa qua, gia đình anh nuôi 17 con để bán vào dịp Tết, trừ chi phí lãi gần 20 triệu đồng/2 tháng.
Theo anh Hiếu, khi mua bò về cần tập cho bò ăn bằng thức ăn công nghiệp để hạn chế bệnh đường ruột. Sau 4 ngày, đều đặn cho bò ăn 2 lần/ngày bằng thức ăn tinh, bổ sung thức ăn thô là rơm rạ, cỏ vào buổi sáng. Thời gian gột bò chỉ 1 - 2 tháng, nếu nuôi dài sẽ không có lãi. Phải chủ động tích trữ rơm rạ hoặc ủ phụ phẩm nông nghiệp làm thức ăn cho chúng. Chuồng trại chăn nuôi bò phải bảo đảm ấm về mùa đông, mát về mùa hè và thường xuyên được vệ sinh sạch sẽ... Chịu khó tích luỹ kinh nghiệm cộng với đức tính cần cù, chịu khó, mỗi năm gia đình anh Hiếu "gột" hơn 100 con bò, trừ chi phí thu lãi từ 60 - 70 triệu đồng/năm.
TRỊNH LAN 4 http://www.baophuyen.com.vn/Trangchủ/PhóngsựKýsự/tabid/89/GId/89/itemIndex/-1/NId/62020/Default.aspx (TS-em lay hinh) Báo Phú Yên, 24/03/2011 Rùa nước kêu cứu
Giá rùa nước gần 30 triệu đồng/kg, lái buôn ráo riết tìm mua nên người dân đổ xô đi săn rùa, đẩy loài thủy sinh này đứng trước nguy cơ tuyệt chủng.
Một thợ săn rùa đang thả bẫy rùa tại huyện Sông Hinh - Ảnh: A.NGUYÊN
BỎ VIỆC ĐỒNG ÁNG ĐI SĂN RÙA
Tại các khu vực nông thôn ở Phú Yên, đàn ông, thanh niên bỏ công việc đồng áng để đi săn rùa bán kiếm tiền. Vì thu nhập cao nên họ bất chấp vi phạm pháp luật quyết tận diệt loài động vật này.
RỦ NHAU ĐI SĂN RÙA
Dân gian có câu: “Ra đường gặp rắn thì đi, gặp quy (rùa) thì về”, ai cũng cho rằng rùa mang lại điềm xui nên tránh gặp rùa. Thế nhưng, do giá rùa tăng cao ngất ngưởng nên từ đầu năm đến nay, trong mọi câu chuyện của người dân tại các huyện: Tây Hòa, Sơn Hòa, Tuy An, Sông Hinh… không thể thiếu được đề tài rùa và rùa nước. Rùa nước trở thành một “vận may” đổi đời của nông dân tại các địa phương này, nếu trúng được rùa. “Tiếng lành đồn xa”, rất nhiều thanh niên rủ nhau “khăn gói” đi săn rùa nước mong một lần… gặp xui.
Theo ông Sáu Vũ, một thợ săn rùa ở xã Hòa Thịnh (huyện Tây Hòa), chuyện trúng rùa bắt đầu bàn tán rôm rả từ trước Tết Nguyên đán. Giá loại rùa này ban đầu chỉ vài trăm nghìn đồng, nhưng sau đó tăng lên 25 triệu đồng, thậm chí có lúc lên đến 27 triệu đồng/kg. Các đầu nậu săn lùng tìm mua rùa, mà người đi săn thì không có rùa để bán. Những ngày cận tết, giá rùa tăng mỗi ngày 1 triệu đồng/kg. Cái giá mà theo ông Sáu Vũ: “Hồi nhỏ giờ ông mới thấy một loại mặt hàng tăng giá nhanh như vậy (!)”. Ông Sáu kể, ở xã Hòa Thịnh có nhiều người trúng rùa như nhóm Hai Tuấn, Tư Trung… trong đó nhóm của Hai Tuấn từng trúng cả trăm triệu đồng từ việc đi săn rùa, chia nhau mỗi người được mấy chục triệu đồng. “Nghe nói trúng rùa mà ham!”, bà Phan Bích Phượng góp thêm câu chuyện đầu năm về con rùa. Còn các ông: Năm Thể, Năm Kính, Bốn Toàn trước đây thường đi hái cà phê, chặt mía hoặc làm thuê xa nhà. Tết rồi về nhà nghe nói nhiều người trúng rùa nên từ sau tết cũng tìm mua một cái lờ về “làm mẫu” rồi tổ chức đan lờ đi thả rùa.
Rùa nước từ một con vật có giá thấp, bây giờ cũng là mặt hàng “hot” và được quan tâm hơn tất cả chuyện lúa bị chuột cắn, chuyện làm nông hay bất kể chuyện gì đang diễn ra tại các vùng quê vốn chỉ quen với công việc đồng áng chân chất.
Từ khi rùa có giá, nghề săn rùa nước không còn là của riêng ai. Chúng tôi theo chân ông Lê Ngọc Quang, thợ săn rùa ở huyện miền núi Sông Hinh để tìm hiểu thực hư chuyện trúng rùa. Ông Quang cho biết, do có quá nhiều người đi săn nên chuyện tốp thợ săn này “thăm dùm” (thăm trộm) lờ của tốp khác là chuyện thường. Trước đây anh đi làm thuê ở Sông Hinh, người dân bắt được nhiều rùa lắm, nhưng ngày đó đâu có ai mua. Ông Quang hồi tưởng: “Trước tết nhiều người trúng lắm, nhiều nhóm trúng cả trăm triệu nên ông cũng đi “săn” cầu “xui” vì biết đâu trời thương(!)”. Ông quan niệm: “Đi đêm sẽ có ngày gặp ma”, nên dù từ khi chuyển sang nghề đi săn rùa chưa một lần “trúng hàng”, nhưng ông vẫn đầy quyết tâm lên đường. Để đến được nơi thả lờ rùa, ông Quang phải mất 2 giờ đồng hồ đi bằng xe máy từ huyện Tây Hòa vượt ĐT645 để đến các điểm thả lờ nằm sâu trong các hồ nhỏ ở xã Sông Hinh (huyện Sông Hinh). Theo ông Quang, rùa nước sống chủ yếu tại các khu vực có nước bẩn, sình lầy như ao, hồ, đầm, phá và ăn những thứ mồi ôi thối. “Mồi càng hôi (ôi thối), càng tanh càng thu hút rùa”, thợ săn này tiết lộ.
Một nhóm người chuẩn bị đồ nghề lên Tây Nguyên săn rùa - Ảnh: A.NGUYÊN
Sau hơn 2 giờ theo chân ông Quang đi thăm từ điểm thả lờ này sang điểm thả lờ khác, từ xã Sông Hinh đến xã Ea Bar, Ea Trol, với các công đoạn thăm lờ - thay mồi - thả lờ, lại chờ… thời. Công việc cứ lặp đi lặp lại như vậy với mấy chục cái lờ mà vẫn không bắt được con rùa nào. Ông Quang phân trần: “Đã gần hai tháng nay, tôi bỏ những công việc đồng áng ở nhà cho vợ lo rồi “đầu tư” gần chục triệu đồng mua lờ, mồi để đi săn rùa, nhưng chưa một lần “trúng” được con rùa nào. Nghe người khác trúng rùa mà phát ham, trong khi tôi lại phát… nợ đến nơi rồi”.
Chúng tôi tiếp tục một cuộc “mục sở thị” khi theo chân một nhóm ba “thợ săn” rùa nước khác, đến các khu vực đầm dưới chân núi Hòn Đen (suối Trạm) thuộc buôn Góp (xã Ea Bar), khu vực Hòn Cồ thuộc địa phận giáp ranh giữa buôn Bầu (xã Ea Trol) và buôn Kít (xã Sông Hinh) để thăm lờ “bẫy” rùa. Nhưng không may với nhóm thợ săn này, tất cả lờ của họ thả đều bị một nhóm thợ săn khác “thăm hộ”, nhiều bẫy rùa bị lấy bỏ cả lên bờ. “Dấu chân lội thăm mới rợi đây mà! Mình cứ làm dùm không thôi...”, một thợ săn tên Khang thở dài, nói.
Chuyện trúng rùa là có thật, nhiều người đã “đổi đời” nhờ rùa. Tuy nhiên, theo các thợ săn khi giá rùa còn rẻ, nhiều người đã săn rùa quá nên đàn rùa đã “kiệt”. Nay số thợ săn tăng vọt mà không bắt được nhiều rùa như trước nên phải chuyển hướng đến các tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắc Nông… để hy vọng bẫy được rùa và đổi đời. Vì vậy, nhiều ngày qua đi trên ĐT645 đoạn qua huyện Sông Hinh sẽ không quá khó để gặp những nhóm thợ săn rùa khăn gói “đồ nghề” ngược lên Tây Nguyên.
RÙA TRUNG BỘ TRƯỚC NGUY CƠ TUYỆT CHỦNG
Giống rùa Trung Bộ thuộc nhóm IIB, ghi trong Sách đỏ IUCN (năm 2005) cấp CR (cấp cực kỳ nguy cấp). Năm 2006, Chính phủ cũng đã ban hành Nghị định số 32 về bảo vệ các loài động vật hoang dã tại Việt Nam. Rùa Trung Bộ được đưa vào danh sách những loài động vật được bảo vệ, cấm mua bán, trao đổi hay tiêu thụ mà không được phép của Chính phủ. Đồng thời, rùa Trung Bộ cũng đã được ghi trong danh mục II, Công ước quốc tế về cấm buôn bán động vật có nguy cơ tuyệt chủng (CITES). Năm 2010, chương trình bảo tồn rùa châu Á của vườn thú Cleverland Metropark (Mỹ) đã làm việc với các cơ quan chức năng của Việt Nam và tài trợ 20.000 USD để lập trạm bảo tồn rùa Trung Bộ tại tỉnh Quảng Ngãi. Dự kiến, trạm bảo tồn rùa Trung Bộ sẽ tiếp nhận rùa để nuôi, chăm sóc, nhân giống và bảo tồn.
Giống rùa nước (rùa đẹp) này hiện giá gần 30 triệu đồng/kg - Ảnh: A.NGUYÊN
Lẽ dĩ nhiên, việc săn bắt rùa đang diễn ra tại Phú Yên và các tỉnh lân cận là hành vi vi phạm pháp luật. Thế nhưng vì tiền, các thợ săn vẫn bằng mọi cách tận diệt loại động vật này. Và vì thế, các thợ săn rùa cũng phải hết sức cẩn trọng, để không bị các cơ quan chức năng phát hiện. “Mỗi khi qua trạm kiểm lâm, chúng tôi chỉ việc bỏ rùa vào túi áo, bình tĩnh đi qua trạm là được. Giống rùa này khá nhỏ, hiền nên rất khó bị phát giác”, một thợ săn rùa, tiết lộ.
Theo một đầu nậu mua rùa ở huyện Tây Hòa, trước Tết Nguyên đán khi rùa nước chỉ mới rục rịch tăng giá từ vài trăm nghìn lên 1 triệu đồng, rồi vài triệu đồng/kg, mỗi ngày mua được cả chục kg rùa nước. Tuy nhiên, đến nay giá rùa tăng cao và rùa nước cũng không còn nhiều nên các thợ săn dù có kinh nghiệm đến đâu cũng rất khó bắt được rùa nước.
Điều lạ là hiện chưa ai xác định được giống rùa nước này có giá trị gì mà giá lại cao đến như vậy, khiến cho ai cũng đổ xô đi bắt. Một số lái buôn thú rừng tiết lộ, họ mua rùa nước rồi tìm cách vận chuyển ra Bắc, sau đó xuất đi nước ngoài. Nhưng nguồn hàng này sẽ được chuyển đi đâu, nhằm mục đích gì thì không ai biết. Một số người đoán mò, có thể rùa dùng làm thuốc chữa bệnh hoặc cũng có thể để chơi (vì loại rùa này có mai rất đẹp)?
Sau buổi đi “thực tế” săn rùa, chúng tôi ghé Hạt Kiểm lâm huyện Sông Hinh, trong khi lãnh đạo hạt đi vắng, chúng tôi hỏi kiểm lâm huyện có biết tình trạng nhiều người đang săn bắt rùa nước và có biện pháp gì để ngăn chặn, thì được một cán bộ tên Phong hỏi lại: “Ai đâu đi săn rùa nước?”, rồi từ chối trả lời mọi câu hỏi vì không có sự chỉ đạo của cấp trên!.
Thiết nghĩ, nếu giống rùa này cứ sốt giá, trong khi ngành chức năng không sớm vào cuộc để ngăn chặn thì giống rùa này chắc chắn sẽ bị tuyệt chủng.
Giống rùa Trung Bộ (giới thợ săn thường gọi là rùa nước hoặc rùa đẹp) có kích thước trung bình và nhỏ; mai có họa tiết rất đẹp. Trước đây rùa nước xuất hiện nhiều trên các cánh đồng, ao hồ ở các khu vực miền núi và không có giá trị.
AN NGUYÊN - NGÔ XUÂN http://www.nhandan.org.vn/cmlink/nhandandientu/thoisu/kinh-te/kinh-t-tin-chung/phat-tri-n-b-n-v-ng-ngh-nuoi-tom-ng-b-ng-song-c-u-long-1.289786#cBOFo83d97aF (TS-em lay hinh) Nhân Dân, 25/03/2011 Phát triển bền vững nghề nuôi tôm ở ĐBSCL
Nông dân tỉnh Bạc Liêu thu hoạch tôm nuôi. (Ảnh: Huỳnh Sử)
Nghề nuôi trồng thủy sản (NTTS), nhất là tôm sú đang phát triển mạnh ở ÐBSCL. Các vùng nước ngọt, ngập mặn, nước lợ ven biển được người dân sử dụng nuôi thủy sản, nuôi tôm với trồng lúa, trồng rừng đạt hiệu quả cao, trở thành vùng nuôi trồng, xuất khẩu thủy sản chủ lực của cả nước, mang lại nguồn thu nhập chính cho hàng triệu nông dân.
Tuy nhiên, bên cạnh sự phát triển đó, nghề nuôi tôm ở ÐBSCL đang gặp nhiều khó khăn, nảy sinh nhiều bức xúc...
Nghề nuôi tôm phát triển nhanh
ÐBSCL có điều kiện tự nhiên rất thuận lợi để phát triển nghề NTTS. Vài năm trở lại đây, các tỉnh trong khu vực này phát triển khá nhanh nghề NTTS. Trong NTTS ở ÐBSCL, con tôm sú là đối tượng nuôi được nông dân lựa chọn nhiều nhất đã trở thành nghề sản xuất mang lại hiệu quả kinh tế cao, làm thay đổi cơ cấu kinh tế trong vùng; góp phần giải quyết việc làm, xóa đói, giảm nghèo cho người dân nông thôn và làm thay đổi nhiều bộ mặt làng quê. Ðến nay, diện tích nuôi tôm của khu vực này chiếm 70% tổng diện tích và 80% sản lượng NTTS của vùng. Chỉ tính trong 5 năm (2005 - 2010), vùng ÐBSCL phát triển diện tích nuôi tôm nước lợ từ 568.130 ha tăng lên 639.115 ha. Các tỉnh có diện tích nuôi tôm lớn như: Cà Mau đạt 265 nghìn ha; Bạc Liêu 125.623 ha; các tỉnh Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Kiên Giang có diện tích từ 20 nghìn ha đến 80 nghìn ha. Khoảng 80% số hộ nuôi tôm theo hình thức quảng canh, quảng canh cải tiến. Sóc Trăng là địa phương dẫn đầu cả nước về mô hình nuôi tôm công nghiệp với hơn 26/48 nghìn ha diện tích nuôi tôm toàn tỉnh. Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP), năm 2010, con tôm là một trong những mặt hàng xuất khẩu thủy sản chủ lực của Việt Nam cạnh tranh được với một số thị trường thế giới; kim ngạch xuất khẩu tôm của vùng vượt mức hai tỷ USD, tăng 23,47% so năm 2009.
Những năm qua, tỉnh Sóc Trăng đầu tư hơn 1.300 tỷ đồng cho 45 dự án phát triển NTTS; xây dựng hệ thống thủy lợi với hàng chục kênh tạo nguồn, hàng trăm km kênh dẫn kết hợp giao thông nông thôn, cùng với hàng chục công trình điện khí hóa nông thôn phục vụ các vùng nuôi tôm trọng điểm ở các huyện Long Phú, Trần Ðề, Mỹ Xuyên, Vĩnh Châu, đưa diện tích nuôi tôm tăng lên 48.148 ha. Các mô hình nuôi tôm ngày càng đa dạng, trong đó diện tích nuôi công nghiệp, bán công nghiệp chiếm hơn 26 nghìn ha, còn lại theo hình thức quảng canh với số lượng thả nuôi hơn sáu tỷ con giống/năm. Toàn tỉnh có khoảng 80% số hộ nuôi tôm ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào vụ nuôi. Năm 2005 năng suất bình quân chỉ đạt 500 đến 600 kg/ha, năm 2010 tăng lên 800 đến 900 kg/ha, sau mỗi vụ nuôi có 70 đến 80% số hộ nuôi có lãi, nhiều ngư dân lãi ròng từ 30 đến 40 triệu đồng/ha/vụ. Nuôi theo mô hình bán công nghiệp, năng suất bình quân đạt 2,5 tấn đến 3 tấn/ha/vụ, lãi từ 120 đến 150 triệu đồng/ha/vụ; nuôi mô hình công nghiệp đạt năng suất rất cao, bình quân từ 8 tấn đến 10 tấn/ha/vụ, cá biệt có hộ nuôi đạt 12 tấn/ha/vụ, nhiều hộ lãi cả tỷ đồng. Năm 2010, tỉnh Sóc Trăng đạt sản lượng gần 55 nghìn tấn tôm.
Tỉnh Cà Mau hiện có diện tích nuôi tôm sú lớn nhất cả nước, chiếm 40% diện tích nuôi tôm vùng ÐBSCL. Năm 2010, năng suất nuôi tôm của Cà Mau bình quân đạt 400 kg/ha/vụ, tổng sản lượng tôm nuôi đạt 103.900 tấn. Kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Cà Mau tăng cao so năm 2009 và vượt xa chỉ tiêu kế hoạch tỉnh đề ra, đạt mức cao nhất từ năm 2003 đến nay. Riêng từ đầu năm đến nay, kim ngạch xuất khẩu thủy sản của tỉnh Cà Mau đạt hơn 54 triệu USD, tăng 13% so cùng kỳ năm 2010. Tổng sản lượng thủy sản chế biến đạt 9.569 tấn. Năm 2011, ngành chế biến và xuất khẩu thủy sản Cà Mau phấn đấu đạt chỉ tiêu kim ngạch xuất khẩu một tỷ USD.
Tuy nhiên, theo dự báo của các ngành chuyên môn, vụ nuôi tôm sú năm 2011 ở ÐBSCL đang phải đối mặt với nhiều khó khăn do thiếu nguồn giống chất lượng, hạ tầng thủy lợi phục vụ cho vùng nuôi, thời tiết diễn biến phức tạp, giá thành sản xuất tăng...
Thiếu quy hoạch tổng thể
ĐBSCL có lợi thế phát triển NTTS nhưng vẫn chưa tương xứng tiềm năng sẵn có. Sự tăng nhanh về diện tích và sản lượng NTTS các tỉnh ÐBSCL trong những năm qua chủ yếu theo chiều rộng, chưa có tính ổn định và bền vững. Ðến nay, diện tích nuôi trồng thủy sản ở ÐBSCL đạt hơn một triệu ha, trong đó có hơn 600 nghìn ha nuôi tôm nước lợ (chủ yếu là nuôi tôm sú). Chỉ riêng diện tích nuôi tôm nước lợ đã tăng gấp hai lần so năm 2000. Việc chuyển dịch diễn ra khá nhanh đã vượt các dự tính quy hoạch, khả năng về cơ sở vật chất, công nghệ, kỹ thuật hiện có và trình độ quản lý. Công tác quy hoạch và chỉ đạo thực hiện quy hoạch chưa tốt, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, chưa gắn kết giữa các ngành kinh tế. Thực tế hiện nay, vẫn có địa phương chưa có quy hoạch tổng thể hoặc chưa có quy hoạch chi tiết ở từng vùng nuôi tôm. Nơi đã có quy hoạch thì việc thực hiện còn lúng túng. Cùng với quy hoạch diện tích nuôi ở các địa phương là quy hoạch sản xuất giống thủy sản, hệ thống dịch vụ, hậu cần cho nuôi thủy sản. Ở một số tỉnh, mặc dù diện tích nuôi tôm tăng nhanh, nhưng công tác kiểm dịch, kiểm tra giống còn nhiều bất cập, chưa chủ động sản xuất được các giống sạch bệnh, thiếu công nghệ quản lý môi trường theo hướng bền vững. Việc đầu tư hệ thống thủy lợi phục vụ NTTS hạn chế, chưa đáp ứng đủ yêu cầu về cấp nước, thoát nước. Sự phối hợp giữa các địa phương trong vùng, giữa yêu cầu thủy lợi nông nghiệp với thủy lợi thủy sản, bảo vệ rừng ngập mặn với NTTS, giữa ngành thủy sản với các ngành khác chưa chặt chẽ, dẫn đến tranh chấp mặn - ngọt phục vụ nuôi tôm, sản xuất lúa. Công nghệ nuôi nhìn chung còn lạc hậu, nuôi quảng canh truyền thống vẫn là chủ yếu, năng suất đạt thấp, chưa đáp ứng được nguồn nguyên liệu phục vụ cho các nhà máy chế biến xuất khẩu.
Giải pháp phát triển bền vững nghề nuôi tôm
Ðể nghề nuôi tôm ở ÐBSCL phát triển bền vững, các địa phương trong khu vực đang tích cực triển khai thực hiện nhiều giải pháp. Trong đó chú trọng hoàn thiện quy hoạch phát triển thủy sản một cách đồng bộ, nhất là quy hoạch thủy lợi phục vụ cho NTTS; đầu tư các trại sản xuất con giống có quy mô lớn, bảo đảm chất lượng; mở rộng diện tích nuôi tôm công nghiệp, xem đây là mặt hàng công nghiệp để có mức đầu tư thỏa đáng; tổ chức hệ thống đại lý cung cấp thức ăn, thú y thủy sản; tăng cường công tác khuyến ngư nhằm chuyển giao tiến bộ kỹ thuật cho người nuôi; chủ động tìm các giải pháp vượt qua khó khăn, nhất là các rào cản thương mại, bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm và hạ giá thành sản phẩm. Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Vũ Văn Tám cho biết, năm 2011 vùng ÐBSCL đề ra kế hoạch nuôi 640 nghìn ha tôm, chủ yếu là tôm sú. Ðể nghề nuôi tôm tiếp tục giành thắng lợi, việc quy hoạch vùng nuôi thủy sản phải dựa vào điều kiện sinh thái, sử dụng có hiệu quả cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện có; cải tạo, đầu tư các công trình thủy lợi nhằm đáp ứng yêu cầu của nuôi thủy sản là cần thiết. Năm nay, Bộ sẽ ban hành tiêu chí cho vùng nuôi và đánh số 50% cơ sở nuôi tôm nhằm thực hiện truy xuất nguồn gốc để nghề nuôi tôm phát triển bền vững. Thực hiện mục tiêu này, tỉnh Cà Mau đang tiến hành quy hoạch các vùng nuôi tôm công nghiệp tập trung ở những nơi có điều kiện phù hợp để mở rộng diện tích, phấn đấu đến năm 2015 nâng diện tích nuôi tôm công nghiệp lên 10 nghìn ha. Triển khai thực hiện các dự án, mô hình sản xuất thí điểm về nuôi tôm công nghiệp.
Chủ tịch UBND tỉnh Sóc Trăng Nguyễn Trung Hiếu cho biết, phát huy lợi thế NTTS trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, trong xóa đói, giảm nghèo và tạo việc làm, thu nhập cho người dân, tỉnh đề ra mục tiêu từ nay đến năm 2020 đạt tổng sản lượng 97,5 nghìn tấn tôm nguyên liệu, 90 nghìn ha nuôi thủy sản, kim ngạch xuất khẩu thủy sản đạt 900 triệu USD. Theo đó, tỉnh ưu tiên đầu tư cải tạo, nâng cấp hệ thống thủy lợi và hạ tầng cơ sở vùng nuôi tôm một cách đồng bộ; mở rộng diện tích nuôi theo hình thức công nghiệp, bán công nghiệp trên cơ sở quy hoạch 35 nghìn ha, hình thành vùng nuôi tôm tập trung theo công nghệ cao. Ðầu tư con giống, xử lý bảo vệ môi trường, tăng cường công tác quản lý giá thức ăn, thuốc thú y thủy sản. Tạo điều kiện cho ngư dân vay vốn, đào tạo nguồn lao động có kỹ thuật đáp ứng nhu cầu phát triển bền vững. Ngoài việc thực hiện ký kết hợp đồng tiêu thụ sản phẩm giữa các doanh nghiệp chế biến với người sản xuất tôm, tỉnh tiếp tục đẩy mạnh xúc tiến thương mại để mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, giúp người dân yên tâm sản xuất, ổn định cuộc sống.
Đỗ Nam
- Kỹ thuật nuôi tôm, nuôi cá, phòng trị bệnh tôm, cá và các loại thủy sản khác
Các tin mới
Các tin năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009 | 2008 | 2007: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 61 62 63 64 65 66 67 68 69 70 71 72 73 74 75 76 77 78 79 80 81 82 83 84 85 86 87 88 89 90 91 92 93 94 95 96 97 98 99 100 101 102 103 104 105 106 107 108 109 110 111 112 113 114 115 116 117 118 119 120 121 122 123 124 125 126 127 128 129 130 131 132 133 134 135 136 137 138 139 140 141 142 143 144 145 146 147 148 149 150 151 152 153 154 155 156 157 158 159 160 161 162 163 164 165 166 167 168 169 170 171 172 173 174 175 176 177 178 179 180 181 182 183 184 185 186 187 188 189 190 191 192 193 194 195 196 197 198 199 200 201 202 203 204 205 206 207 208 209 210 211 212 213 214 215 216 217 218 219 220 221 222 223 224 225 226 227 228 229 230 231 232 233 234 235 236 237 238 239 240 241 242 243 244 245 246 247 248 249 250 251 252 253 254 255 256 257 258 259 260 261 262 263 264 265 266 267 268 269 270 271 272 273 274 275 276 277 278 279 280 281 282 283 284 285 286 287 288 289 290 291 292 293 294 295 296 297 298 299 300 301 302 303 304 305 306 307 308 309 310 311 312 313 314 315 316 317 318 319 320 321 322 323 324 325 326 327 328 329 330 331 332 333 334 335 336 337 338 339 340 341 342 343 344 345 346 347 348 349 350 351 352 353 354 355 356 357 358 359 360 361 362 363 364 365 366 367 368 369 370 371 372 373 374 375 376 377 378 379 380 381 382 383 384 385 386 387 388 389 390 391 392 393 394 395 396 397 398 399 400 401 402 403 404 405 406 407 408 409 410 411 412 413 414 415 416 417 418 419 420 421 422 423 424 425 426 427 428 429 430 431 432 433 434 435 436 437 438 439 440 441 442 443 444 445 446 447 448 449 450 451 452 453 454 455 456 457 458 459 460 461 462 463 464 465 466 467 468 469 470 471 472 473 474 475 476 477 478 479 480 481 482 483 484 485 486 487 488 489 490 491 492 493 494 495 496 497 498 499 500 501 502 503 504 505 506 507 508 509 510 511 512 513 514 515 516 517 518 519 520 521 522 523 524 525 526 527 528 529 530 531 532 533 534 535 536 537 538 539 540 541 542 543 544 545 546 547 548 549 550 551 552 553 554 555 556 557 558 559 560 561 562 563 564 565 566 567 568 569 570 571 572 573 574 575 576 577 578 579 580 581 582 583 584 585 586 587 588 589 590 591 592 593 594 595 596 597 598 599 600 601 602 603 604 605 606 607 608 609 610 611 612 613 614 615 616 617 618 619 620 621 622 623 624 625 626 627 628 629 630 631 632 633 634 635 636 637 638 639 640 641 642 643 644 645 646 647 648 649 650 651 652 653 654 655 656 657 658 659 660 661 662 663 664 665 666 667 668 669 670 671 672 673 674 675 676 677 678 679 680 681 682 683 684 685 686 687 688 689 690 691 692 693 694 695 696 697 698 699 700 701 702 703 704 705 706 707 708 709 710 711 712 713 714 715 716 717 718 719 720 721 722 723 724 725 726 727 728 729 730 731 732 733 734 735 736 737 738 739 740 741 742 743 744 745 746 747 748 749 750 751 752 753 754 755 756 757 758 759 760 761 762 763 764 765 766 767 768 769 770 771 772 773 774 775 776 777 778 779 780 781 782 783 784 785 786 787 788 789 790 791 792 793 794 795 796 797 798 799 800 801 802 803 804 805 806 807 808 809 810 811 812 813 814 815 816 817 818 819 820 821 822 823 824 825 826 827 828 829 830 831 832 833 834 835 836 837 838 839 840 841 842 843 844 845 846 847 848 849 850 851 852 853 854 855 856 857 858 859 860 861 862 863 864 865 866 867 868 869 870 871 872 873 874 875 876 877 878 879 880 881 882 883 884 885 886 887
Bệnh phân trắng không làm tôm chết nhanh và chết hàng loạt như bệnh đốm trắng hay bệnh gan tụy cấp, nhưng nếu không khống chế sẽ gây ra những thiệt hại to lớn cho người nuôi tôm...
Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.