Nguồn tin: Thương Mại Thủy Sản, 20/10/2011
Ngày cập nhật:
21/10/2011
Hội nghị khu vực phía Nam tại Tiền Giang - Ảnh: B.N
Nuôi theo hình thức quảng canh, manh mún, thiếu con giống đảm bảo chất lượng, hệ thống thủy lợi phải đi “găn chực”, liên kết giữa “các nhà” còn hạn chế, cơ chế và tổ chức quản lý còn nhiều bất cập…
Đó là những vấn đề nổi cộm mà ngành nuôi thủy sản nước ngọt Việt Nam phải đối mặt.
Trong 3 ngày 19, 20 và 22/9/2011, Tổng cục Thủy sản (TCTS) đã tổ chức 3 hội nghị “Sơ kết tình hình nuôi trồng thủy sản nước ngọt năm 2011 và đề xuất giải pháp triển khai năm 2012” tại 3 khu vực Bắc - Bắc Trung Bộ, Nam Trung Bộ - Tây Nguyên và Nam Bộ. Tại những hội nghị đó, nhiều khó khăn, thách thức mà khu vực nuôi thủy sản nước ngọt (NTSNN) đang phải đối đầu đã được nhận diện khá rõ.
Miền Bắc: Có mô hình tốt, nhưng chủ yếu vẫn là nhỏ lẻ, manh mún, tự phát…
Theo thống kê của TCTS, diện tích NTSNN của các tỉnh Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ là hơn 163.000 ha, bằng 76% diện tích NTTS của toàn khu vực. Sản lượng thủy sản nước ngọt hàng năm ước đạt gần 230.000 tấn.
Một số địa phương đã có sự bứt phá để đạt năng suất và chất lượng cao trong NTTS, điển hình là Hải Dương với mô hình NTSNN hàng hóa, chủ động xây dựng những cơ sở cung cấp cá giống quy mô lớn và đảm bảo chất lượng, không chỉ đủ cung ứng cho nhu cầu của người nuôi trong tỉnh mà còn cung cấp cho nhiều tỉnh khác trong khu vực.
Hầu hết người nuôi thủy sản ở Hải Dương đều sử dụng thức ăn chế biến và nuôi theo mô hình công nghiệp. Ông Phạm Văn Phục, chủ nhiệm HTX Cá Xuân Nẻo ở Tứ Kỳ cho biết: “Nuôi cá công nghiệp tiết kiệm được rất nhiều thời gian, mỗi ngày chỉ mất khoảng 15 phút cho ăn. Thứ hai, nuôi công nghiệp cá nhanh lớn, hiệu quả cao. Cá nuôi công nghiệp ít nhiễm bệnh vì mình rất chú ý quản lý, thay nước, thực sự là nuôi chứ không phải chỉ là thả cá”.
Hiện nay, tỉnh có số lượng lớn các hộ, liên hợp tác xã phát triển NTTS theo hướng hàng hóa tập trung. Năng suất cao nhất có thể đạt tới 12 - 15 tấn/ha. Khi thực hiện mô hình này, tỉnh Hải Dương đã chú trọng gắn liền sản xuất với nhu cầu thị trường, đẩy mạnh XTTM và tìm đầu ra cho sản phẩm. Hiệu quả thu được đã khuyến khích nông dân và các cơ sở NTTS mạnh dạn đầu tư phát triển sản xuất, từ bỏ dần lối sản xuất manh mún, kém hiệu quả như trước kia.
Tuy nhiên, Hải Dương chỉ là một trong số những điểm sáng hiếm hoi ở khu vực phía Bắc và Bắc Trung Bộ, nơi hoạt động NTSNN chủ yếu theo quy mô nhỏ, manh mún, phân tán, hiệu quả kinh tế không cao.
Theo các chuyên gia NTTS, muốn phát triển bền vững ngành NTSNN, các địa phương khác trong khu vực cần học tập Hải Dương đi theo hướng sản xuất hàng hóa tập trung, chú trọng hỗ trợ nông dân kiến thức về khoa học kỹ thuật, sử dụng thuốc thú y và đặc biệt về vốn,...
Miền Trung: Thiếu giống, hệ thống thủy lợi và quan trắc cảnh báo môi trường
Theo TCTS, trong 6 tháng đầu năm, khu vực Nam Trung Bộ - Tây Nguyên có tổng diện tích NTSNN là 36.039 ha, bằng 75% diện tích NTTS trong khu vực và bằng 97% kế hoạch năm. Sản lượng thủy sản NTSNN đạt 18.459 tấn, bằng 35% sản lượng NTTS của toàn vùng và bằng 56% kế hoạch.
Khu vực này hiện có 31 trại sản xuất giống thủy sản nước ngọt đã đưa vào sản xuất với sản lượng con giống từ đầu năm đến nay 70 triệu con, hầu hết các tỉnh đều có trung tâm sản xuất giống thủy sản. Tuy nhiên, chất lượng và số lượng cá giống chưa đáp ứng nhu cầu. Việc kiểm soát chất lượng con giống còn bị bỏ ngỏ. Chẳng hạn, tỉnh Quảng Ngãi có 1 trại sản xuất giống thủy sản nước ngọt, mỗi năm sản xuất được khoảng 1,5 - 2,0 triệu con giống, chỉ đáp ứng được 50% nhu cầu của người nuôi tại địa phương. Tỉnh Quảng Nam có 2 cơ sở sản xuất giống, cung cấp được 5 triệu con giống/năm.
Đắk Lắk, tỉnh đứng đầu trong 5 tỉnh Tây Nguyên, có 9 cơ sở sản xuất giống, thỏa mãn được trên dưới 50% tổng nhu cầu con giống cho nuôi thương phẩm, chủ yếu là giống các loài cá nuôi truyền thống, còn con giống các loài như điêu hồng, rô phi đơn tính, các lóc môi trề, v.v... đều phải mua từ các tỉnh phía Nam. Đặc biệt, tỉnh Phú Yên có tới 6 cơ sở sản xuất giống nhưng mỗi năm chỉ sản xuất ra 0,8 triệu con giống.
Lý giải cho điều này, Vụ trưởng Vụ NTTS Nguyễn Huy Điền cho biết, Nam Trung Bộ và Tây Nguyên là khu vực có nhiều tiềm năng để phát triển NTSNN quy mô lớn, nhờ có nhiều hồ chứa và sông suối, tuy nhiên việc đầu tư cho hạ tầng NTTS còn rất hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, đặc biệt là về hệ thống thủy lợi, hệ thống sản xuất giống cũng như hệ thống quan trắc, cảnh báo môi trường, dịch bệnh.
Nông dân và đồng bào các dân tộc chủ yếu nuôi thủy sản theo kinh nghiệm, truyền thống, trình độ kỹ thuật thấp, khống có nguồn vốn lớn đầu tư cho phát triển NTTS, nhất là ở các vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc ít người.
Ở các địa phương ở khu vực này, hầu hết đàn cá bố mẹ ít được thay thế, bổ sung, việc lưu giữ giống gốc, giống thủy sản ông bà, sản bố, mẹ chưa được chú trọng. Tại Đắk Lắk, hằng năm có 10 - 16 tấn cá bố mẹ các loại được đưa vào nuôi vỗ cho đẻ, tuy nhiên chất lượng cá bố mẹ chưa đảm bảo, một số đàn cá bố mẹ truyền thống hầu như đã thoái hóa. Còn tại Lâm Đồng, Trạm Nghiên cứu thực nghiệm Quảng Hiệp có khoảng 5 tấn cá bố mẹ cho năng suất, chất lượng ổn định, tuy nhiên Trạm chưa chuyển giao đàn cá bố mẹ nào cho các đơn vị trong và ngoài tỉnh…
Theo Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Nguyễn Thị Xuân Thu, để giải quyết giống cho nhu cầu nuôi của dân, các tỉnh trong khu vực này cần có lộ trình để thay thế giống thủy sản truyền thống bằng giống các mới cho năng suất, chất lượng cao hơn, đẩy mạnh và khuyến khích hoạt động của trại giống tư nhân. Ngoài ra, các tỉnh cần hình thành các trại ương nuôi cá bột, cá giống tại các vùng sâu, vùng xa, xây dựng dự án chuyển giao công nghệ nuôi các loài cá bản địa, tạo sinh kế mới cho người dân.
Nam Bộ: Cơ chế quản lý còn nhiều bất cập
Nam Bộ là khu vực tập trung phần lớn diện tích và sản lượng NTSNN của cả nước và là nơi đi đầu trong NTSNN qui mô hàng hóa.
Theo TCTS, trong 6 tháng đầu năm 2011, diện tích và sản lượng thủy sản nước ngọt vùng ĐBSCL là 98.640 ha và 882.568 tấn, bằng 14% diện tích và 74% sản lượng thủy sản nuôi trong toàn vùng; trong đó, diện tích nuôi cá tra 3.560 ha, sản lượng 581.144 tấn, bằng 4% diện tích nhưng chiếm tới 66% sản lượng thủy sản nước ngọt nuôi trong khu vực. Tại 19 tỉnh phía nam có tổng số 560 trại sản xuất thủy sản nước ngọt giống, cung cấp gần 5 tỷ con giống cho nuôi thương phẩm.
Mặc dù đạt kết quả cao, nhưng nhìn chung khu vực này cũng gặp đủ những vấn đề mà các khu vực khác đang vấp phải. Nổi cộm là chất lượng con giống thấp, chưa có thương hiệu cho những loài cá chủ lực, quy mô sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, chưa thu hút đầu tư của các DN công nghệ cao, mối liên kết giữa các “nhà” lỏng lẻo, v.v…
Tuy nhiên, “nóng” nhất vẫn là sự thiếu thống nhất, chồng chéo và quá nhiều bất cập trong quản lý NTTS ở khu vực này.
Th.S Trần Anh Dũng, Chi cục Thủy sản An Giang, cho biết: “Hiện tại, chương trình giám sát dịch bệnh vẫn chưa rõ cách thức tổ chức. Việc quản lý chất lượng con giống phải dựa vào tiêu chuẩn, qui chuẩn quốc gia nhưng Bộ chưa ban hành; áp dụng tiêu chuẩn ngành đã có thì không được mà phải chờ qui chuẩn mới. Địa phương không biết dựa vào đâu để thanh tra, kiểm tra khi về các cơ sở sản xuất, kinh doanh”.
Ông Tiết Tiến Dũng, Chi cục trưởng Thủy sản Cà Mau cho biết, hiện nay việc quản lý chất lượng con giống được giao cho Chi cục Thủy sản, nhưng khâu kiểm dịch và cấp phép lại do cơ quan thú y tiến hành; các vấn đề về môi trường do Phòng Tài nguyên Môi trường đảm trách, còn kiểm định chất lượng con giống và quản lý các cơ sở kinh doanh thức ăn, thuốc trị bệnh thuỷ sản thì do Chi cục Thú y lo. Vì thế, mặc dù theo lý thuyết Chi cục Thủy sản được giao rất nhiều nhiệm vụ, nhưng không hề có thực quyền. Với những qui định đó, phần việc của Chi cục Thủy sản gần như do Chi cục Thú y và Phòng Tài nguyên Môi trường các địa phương lo trọn, còn Chi cục Thủy sản phải gánh trách nhiệm và hậu quả nếu có sự cố.
Bà Phạm Thị Thu Hồng, Chi cục trưởng Thủy sản Vĩnh Long, cho biết, các cơ sở cung ứng thuốc thú y, thức ăn gia súc kiêm luôn việc bán các loại chế phẩm sinh học, thức ăn, thuốc trị bệnh dành cho thuỷ sản đang mọc lên như nấm ở các địa phương. Tuy nhiên, Chi cục Thủy sản không thể trực tiếp kiểm tra, thẩm định chất lượng các sản phẩm đó vì không được trao quyền. Các cơ sở cung cấp thức ăn, thuốc thú y tự khảo nghiệm rồi bán cho người dân, Chi cục Thủy sản không nắm hết số lượng các cơ sở đủ điều kiện cung cấp nên rất khó để quản lý một cách chặt chẽ.
Vấn đề cấp bách hiện nay là phải đẩy mạnh cải cách cơ chế quản lý nếu muốn ngành thủy sản phát triển lâu dài và bền vững - đó là kết luận của đa số đại biểu tham dự các hội nghị. Thứ trưởng NN&PTNT Nguyễn Thị Xuân Thu và lãnh đạo ngành thủy sản các địa phương đều đồng tình với kết luận này và kiến nghị Nhà nước sớm xây dựng và ban hành kịp thời các qui chuẩn quốc gia, qui chuẩn kỹ thuật, xây dựng và ban hành thông tư liên Bộ NN&PTNT và Bộ Nội vụ về việc qui định chức năng, nhiệm vụ hệ thống quản lý NTTS ở cấp tỉnh để có căn cứ pháp lý xây dựng đề án tổ chức nâng cao năng lực cơ quan quản lý thủy sản ở địa phương.
Bên cạnh đó, cần tăng cường công tác quản lý chuyên ngành, thống nhất hệ thống quản lý từ trung ương đến các tỉnh, phân công rõ ràng chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm của các vụ, cục chuyên ngành, các chi cục trong công tác quản lý đối với từng đối tượng và lĩnh vực quản lý… tránh chồng chéo hay bỏ trống, đặc biệt là về quản lý chất lượng, con giống, kiểm dịch và điều kiện sản xuất…
Cần sớm ban hành thông tư hướng dẫn về việc thực hiện VietGAP trong nuôi trồng thuỷ sản, triển khai nhanh dự án cung cấp giống gốc cá tra, cá rô phi để cải tạo đàn giống, phát triển đàn cá giống chất lượng quốc gia… là những việc cần làm ngay trong năm nay và những tháng đầu năm 2012.
Thanh Phương
- Kỹ thuật nuôi tôm, nuôi cá, phòng trị bệnh tôm, cá và các loại thủy sản khác
Các tin mới
Các tin năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009 | 2008 | 2007:
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
38
39
40
41
42
43
44
45
46
47
48
49
50
51
52
53
54
55
56
57
58
59
60
61
62
63
64
65
66
67
68
69
70
71
72
73
74
75
76
77
78
79
80
81
82
83
84
85
86
87
88
89
90
91
92
93
94
95
96
97
98
99
100
101
102
103
104
105
106
107
108
109
110
111
112
113
114
115
116
117
118
119
120
121
122
123
124
125
126
127
128
129
130
131
132
133
134
135
136
137
138
139
140
141
142
143
144
145
146
147
148
149
150
151
152
153
154
155
156
157
158
159
160
161
162
163
164
165
166
167
168
169
170
171
172
173
174
175
176
177
178
179
180
181
182
183
184
185
186
187
188
189
190
191
192
193
194
195
196
197
198
199
200
201
202
203
204
205
206
207
208
209
210
211
212
213
214
215
216
217
218
219
220
221
222
223
224
225
226
227
228
229
230
231
232
233
234
235
236
237
238
239
240
241
242
243
244
245
246
247
248
249
250
251
252
253
254
255
256
257
258
259
260
261
262
263
264
265
266
267
268
269
270
271
272
273
274
275
276
277
278
279
280
281
282
283
284
285
286
287
288
289
290
291
292
293
294
295
296
297
298
299
300
301
302
303
304
305
306
307
308
309
310
311
312
313
314
315
316
317
318
319
320
321
322
323
324
325
326
327
328
329
330
331
332
333
334
335
336
337
338
339
340
341
342
343
344
345
346
347
348
349
350
351
352
353
354
355
356
357
358
359
360
361
362
363
364
365
366
367
368
369
370
371
372
373
374
375
376
377
378
379
380
381
382
383
384
385
386
387
388
389
390
391
392
393
394
395
396
397
398
399
400
401
402
403
404
405
406
407
408
409
410
411
412
413
414
415
416
417
418
419
420
421
422
423
424
425
426
427
428
429
430
431
432
433
434
435
436
437
438
439
440
441
442
443
444
445
446
447
448
449
450
451
452
453
454
455
456
457
458
459
460
461
462
463
464
465
466
467
468
469
470
471
472
473
474
475
476
477
478
479
480
481
482
483
484
485
486
487
488
489
490
491
492
493
494
495
496
497
498
499
500
501
502
503
504
505
506
507
508
509
510
511
512
513
514
515
516
517
518
519
520
521
522
523
524
525
526
527
528
529
530
531
532
533
534
535
536
537
538
539
540
541
542
543
544
545
546
547
548
549
550
551
552
553
554
555
556
557
558
559
560
561
562
563
564
565
566
567
568
569
570
571
572
573
574
575
576
577
578
579
580
581
582
583
584
585
586
587
588
589
590
591
592
593
594
595
596
597
598
599
600
601
602
603
604
605
606
607
608
609
610
611
612
613
614
615
616
617
618
619
620
621
622
623
624
625
626
627
628
629
630
631
632
633
634
635
636
637
638
639
640
641
642
643
644
645
646
647
648
649
650
651
652
653
654
655
656
657
658
659
660
661
662
663
664
665
666
667
668
669
670
671
672
673
674
675
676
677
678
679
680
681
682
683
684
685
686
687
688
689
690
691
692
693
694
695
696
697
698
699
700
701
702
703
704
705
706
707
708
709
710
711
712
713
714
715
716
717
718
719
720
721
722
723
724
725
726
727
728
729
730
731
732
733
734
735
736
737
738
739
740
741
742
743
744
745
746
747
748
749
750
751
752
753
754
755
756
757
758
759
760
761
762
763
764
765
766
767
768
769
770
771
772
773
774
775
776
777
778
779
780
781
782
783
784
785
786
787
788
789
790
791
792
793
794
795
796
797
798
799
800
801
802
803
804
805
806
807
808
809
810
811
812
813
814
815
816
817
818
819
820
821
822
823
824
825
826
827
828
829
830
831
832
833
834
835
836
837
838
839
840
841
842
843
844
845
846
847
848
849
850
851
852
853
854
855
856
857
858
859
860
861
862
863
864
865
866
867
868
869
870
871
872
873
874
875
876
877
878
879
880
881
882
883
884
885
886
887
Bệnh phân trắng không làm tôm chết nhanh và chết hàng loạt như bệnh đốm trắng hay bệnh gan tụy cấp, nhưng nếu không khống chế sẽ gây ra những thiệt hại to lớn cho người nuôi tôm...
Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.