Nguồn tin: Thương Mại Thuỷ Sản, 29/09/2012
Ngày cập nhật:
1/10/2012
“Dùng bùn đáy ao cá tra để trồng một số cây nông nghiệp như lúa, bắp, nhãn, … không những có thể nâng cao cao trình đất, tăng năng suất cây trồng, giảm chi phí ph ân bón, mà còn góp phần hạn chế tối đa những tác động tiêu cực đối với môi trường”- đó là những chia sẻ rất đỗi chân tình của hầu hết nông dân vùng ĐBSCL đã sử dụng bùn từ đáy ao nuôi cá tra để bón cho cây trồng của họ.
Bùn đáy ao không còn là “đồ bỏ”
Nghề nuôi cá tra đã có từ lâu ở ĐBSCL, nhưng nó mới trở thành một ngành sản xuất quan trọng từ năm 2000 trở lại đây, với mức tăng trưởng khoảng 15 – 20% mỗi năm, sản phẩm được XK sang hơn 100 quốc gia trên thế giới. Sản lượng cá tra đã tăng từ 265.000 tấn năm 2004 lên đến hơn 1,3 triệu tấn vào năm 2011.
Việc nuôi cá tra mang lại cho người dân rất nhiều lợi ích, cho nền kinh tế đất nước nhiều tỷ đôla; song, nó cũng đưa vào môi trường một lượng chất thải không hề nhỏ, trong đó phần lớn là bùn đáy ao. Theo nghiên cứu của Khoa Thủy Sản, Đại học Cần Thơ, bùn đáy ao hình thành từ nhiều nguồn: thức ăn cho cá dư thừa; phân và chất bài tiết từ cá; thuốc, hóa chất; chất lơ lửng; đất xói mòn, …Ước tính để sản xuất 1,5 triệu tấn cá nguyên liệu, sẽ có 8 – 9 triệu tấn bùn đáy ao thải ra môi trường.
Theo anh Trần Văn Lắm, Trưởng trạm Thủy sản huyện Thanh Bình, Đồng Tháp, nhiều công ty và nhất là người nuôi quy mô nhỏ, không đủ điều kiện xây dựng ao chứa bùn thải ở vùng nuôi. Từ các ao nuôi, phần lớn bùn đáy chưa qua xử lý sẽ thải trực tiếp ra sông. Chính lượng bùn này cùng với nước thải là những tác nhân làm suy giảm chất lượng nước sông. Hơn nữa, trong bùn đáy chứa nhiều khí độc (NH3, H2S, CH4, …) làm giảm oxy trong nước, giảm chất lượng môi trường nuôi, ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và phát triển của cá.
Theo nghiên cứu của Dự án Nuôi trồng Thủy sản Bền vững theo Tiêu chuẩn Thương mại (SEAT), hiện nay có nhiều phương pháp xử lý bùn đáy ao nuôi cá tra, như bơm đến ao chứa, bơm đến vườn, bơm đến nơi cấp/thoát nước, bơm đến ruộng lúa/mương vườn, … Trong đó, hai cách đầu tiên được khoảng 33 – 45% người nuôi áp dụng.
Tuy bùn đáy ao nuôi cá tra có nhiều mặt tiêu cực, song nó cũng chứa lượng lớn các chất dinh dưỡng rất tốt cho sự tăng trưởng của cây trồng. Các chuyên gia khuyến cáo người dân nên sử dụng bùn đáy ao cá tra làm nguồn phân bón hữu cơ cho hoa màu, cây ăn quả, góp phần tăng năng suất cây trồng, đồng thời hạn chế ô nhiễm môi trường.
Trong vài năm gần đây, nhờ tận dụng bùn thải, năng suất cây trồng của nhiều nông dân khu vực ĐBSCL tăng đáng kể. Theo nhiều hộ dân, bùn đáy ao giờ “rất hiếm”, đôi khi không đủ để bơm cho rẫy hoặc vườn cây ăn trái của họ, vì nhiều người cần nhưng bùn lại ít.
Năng suất và lợi nhuận tăng bất ngờ
Anh Lắm cho biết, huyện Thanh Bình là nơi có truyền thống làm rẫy lâu năm. Trong những năm gần đây, từ khi được khuyến cáo sử dụng bùn đáy ao nuôi, năng suất và lợi nhuận từ lúa, cây ăn trái và hoa màu tăng rõ rệt, người dân nơi đây rất phấn khởi.
Anh Trần Sol Ri ở ấp Nam, xã Tân Thạnh, huyện Thanh Bình, Đồng Tháp, cho biết, gia đình có 10 ha đất trồng bắp cách ao nuôi cá tra của công ty Tô Châu một bờ đất (khoảng 20 cm). Sau mỗi vụ nuôi, ao nuôi này phải nạo vét bùn lắng tụ dưới đáy ao để cải tạo chuẩn bị cho vụ nuôi mới. Anh Ri xin bùn này để bón cho 5 ha bắp. Sau 2,5 – 3 tháng, đến thời gian thu hoạch, so sánh với 5 ha còn lại không bón bùn, khu vực bắp có bón bùn đáy ao đạt năng suất 1,3 tấn. Với giá bắp khoảng 5.800 đồng/kg, lợi nhuận anh Ri đạt được tăng khoảng 600.000 đồng/ha so với trước đây. Ngoài ra, do có sử dụng bùn đáy ao, anh Ri còn giảm được 15% lượng phân hóa học bón cho bắp, tiết kiệm được từ 700.000 đến 720.000 đồng/ha tiền phân bón.
“Chỉ thử dùng bùn đáy ao cho bắp ở vụ đầu mà hiệu quả mang lại cao như thế, tôi thật không tin nổi. Vì vậy, những vụ sau đó, tôi vẫn tiếp tục sử dụng loại bùn này để bón cho rẫy bắp để kiểm chứng. Đến nay được 3 năm, tôi thật sự bị thuyết phục vì năm nào rẫy bắp cũng đạt năng suất và lợi nhuận cao như vậy” - anh Ri vui vẻ nói.
Ngoài anh Ri, nhiều nông dân gần đó cũng sử dụng bùn cho rẫy ớt, chanh hoặc hành của họ. Đơn cử là chú Út Khi ở xã Tân Thạnh, huyện Thanh Bình, Đồng Tháp, có 3 ha ớt canh tác từ năm 1975. Những năm trước, rẫy ớt của gia đình không sử dụng bùn, năng suất chỉ khoảng 2,3 – 3,0 tấn/1000 m2. Từ năm 2008 – 2009 đến nay, thấy nhiều hộ dân xung quanh sử dụng bùn đáy ao nuôi cá tra đạt hiệu quả cao, chú Út cũng mạnh dạn bơm bùn từ ao nuôi cá của công ty Vĩnh Hoàn cho rẫy ớt của mình. Sau vài tháng trồng, năng suất thu hoạch ớt cao hơn hẳn, đạt 4 tấn/1000 m2, tăng gấp 1,5 lần so với khi chỉ dùng phân hóa học, lợi nhuận tăng 15 - 20 triệu đồng/ha.
“Mọi người trong gia đình đều bất ngờ. Chỉ tốn khoảng 350 - 500 nghìn đồng/lần hỗ trợ tiền dầu để bơm bùn từ ao qua rẫy ớt nhưng hiệu quả đạt được không nhỏ chút nào, giảm tiền bón phân mà năng suất tăng”- chú Út hớn hở kể.
Thêm nhiều cái lợi khác
Cao trình đất được nâng lên
Kinh tế vùng đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) chủ yếu là nông nghiệp. Đây là vựa lúa lớn nhất nước, song hằng năm lũ sông Mêkông tràn về gây ngập lụt gần 2,0 triệu ha, kéo dài 4 – 6 tháng, ngập sâu 0,5 – 4,0 m, không những gây trở ngại đối với sản xuất mà còn thiệt hại lớn về người và tài sản. Dùng bùn đáy ao bón cho cây ăn trái, hoa màu góp phần nâng cao cao trình đất giúp đối phó với lũ dễ dàng hơn.
Theo anh Ri, từ khi bơm bùn cho rẫy bắp đến nay, độ cao của đất trồng và đê bảo vệ rẫy tăng lên khoảng 15 – 20 cm, tránh được nước dâng mỗi khi mùa lũ kéo đến. Đồng ý kiến với anh Ri, chú Út Khi cho biết, lớp đất trồng ớt của gia đình chú cũng được nâng lên đáng kể.
Bên cạnh đó, bùn làm cho đất trồng tơi xốp và rễ cây ăn sâu vào đất hơn, cây cứng cáp không bị ngã đổ do gió mưa, nhất là khi trên cây có nhiều quả và gần đến thời gian thu hoạch, anh Lắm giải thích thêm.
Môi trường được khôi phục
Trong mấy năm trở lại đây, theo khảo sát của các cơ quan môi trường một số tỉnh vùng ĐBSCL, tình trạng thải bùn đáy ao ra môi trường giảm đáng kể ở một số khu vực có dùng bùn để bón cho ruộng lúa hoặc rẫy hoa màu hay mương vườn. Từ đó, môi trường nước và chất lượng nước sông, kênh rạch được cải thiện và khôi phục dần.
Việc đáp ứng những yêu cầu liên quan đến xử lý chất thải đáy ao trong các tiêu chuẩn, chứng nhận quốc tế như ASC, GlobalGAP, BAP, … cũng ngày càng dễ hơn.
Một số hạn chế nhất định
“Tôi chỉ bơm bùn được 5 ha đất trong số 10 ha bắp vì 5 ha đất còn lại nằm ở khá xa ao nuôi cá, muốn bơm tới thì ống bơm phải dài và lượng dầu cho máy bơm phải nhiều gấp 2 – 3 lần, như vậy chi phí trồng bắp nâng lên nhiều, lợi nhuận giảm, thậm chí có thể lỗ. Do đó, chỉ những khu vực trồng bắp gần ao nuôi cá mới có cơ hội” - anh Ri bộc bạch.
“Do thấy hiệu quả mang lại từ bùn, nhiều người trồng rẫy cũng muốn dùng nhưng lượng bùn của ao nuôi cá xung quanh hạn chế, nhiều khi không có để bơm. Vì vậy, chỉ người nào nhanh chân xin trước mới có. Nếu rẫy bắp được bơm bùn mỗi năm thì tốt biết mấy” - anh nói thêm.
Thêm vào đó, khó khăn hiện nay là vấn đề “thời điểm gặp nhau phù hợp” giữa người nuôi cá và người trồng rẫy hay cây ăn trái. Nếu ao nuôi cá đến kỳ thu hoạch và phải cải tạo ao chuẩn bị cho vụ nuôi mới đúng vào lúc ruộng lúa hoặc cây hoa màu đang trong giai đoạn sinh trưởng hoặc sắp thu hoạch thì không thể bơm bùn sang được. Khi đó, các ao nuôi cá buộc phải xả nước thải và bùn vào ao chứa hoặc ra sông, tình trạng ô nhiễm lại tiếp diễn. Ngược lại, cũng có lúc người cần bùn bón cho vườn, rẫy thì ao cá đang trong giai đoạn nuôi, chưa đến thời gian bơm.
“Biết khó khăn như vậy nhưng những cơ quan chức năng như chúng tôi khó khuyến cáo cho hai đối tượng này “gặp nhau” được vì thời vụ sản xuất nông nghiệp của từng đối tượng, từng loại cây trồng hoặc vật nuôi chưa đồng bộ cùng nhau” - anh Lắm cho biết thêm.
Nhìn chung, việc sử dụng bùn đáy ao nuôi cá tra cho sản xuất nông nghiệp ngày càng được nhiều người dân ủng hộ, áp dụng do hiệu quả cả về năng suất lẫn lợi nhuận. nhưng cũng còn những hạn chế, bất cập. Do vậy các cơ quan quản lý và nghiên cứu cần có chủ trương, biện pháp quản lý phù hợp và nghiên cứu để việc xả thải bùn đáy ao nuôi cá tra hợp lý hơn, nhằm tránh tác động tiêu cực đối với môi trường, góp phần phát triển bền vững nghề nuôi cá tra nói riêng và ngành NTTS Việt Nam nói chung.
Trương Ngô Bích Ngọc
- Kỹ thuật nuôi tôm, nuôi cá, phòng trị bệnh tôm, cá và các loại thủy sản khác
Các tin mới
Các tin năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009 | 2008 | 2007:
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
38
39
40
41
42
43
44
45
46
47
48
49
50
51
52
53
54
55
56
57
58
59
60
61
62
63
64
65
66
67
68
69
70
71
72
73
74
75
76
77
78
79
80
81
82
83
84
85
86
87
88
89
90
91
92
93
94
95
96
97
98
99
100
101
102
103
104
105
106
107
108
109
110
111
112
113
114
115
116
117
118
119
120
121
122
123
124
125
126
127
128
129
130
131
132
133
134
135
136
137
138
139
140
141
142
143
144
145
146
147
148
149
150
151
152
153
154
155
156
157
158
159
160
161
162
163
164
165
166
167
168
169
170
171
172
173
174
175
176
177
178
179
180
181
182
183
184
185
186
187
188
189
190
191
192
193
194
195
196
197
198
199
200
201
202
203
204
205
206
207
208
209
210
211
212
213
214
215
216
217
218
219
220
221
222
223
224
225
226
227
228
229
230
231
232
233
234
235
236
237
238
239
240
241
242
243
244
245
246
247
248
249
250
251
252
253
254
255
256
257
258
259
260
261
262
263
264
265
266
267
268
269
270
271
272
273
274
275
276
277
278
279
280
281
282
283
284
285
286
287
288
289
290
291
292
293
294
295
296
297
298
299
300
301
302
303
304
305
306
307
308
309
310
311
312
313
314
315
316
317
318
319
320
321
322
323
324
325
326
327
328
329
330
331
332
333
334
335
336
337
338
339
340
341
342
343
344
345
346
347
348
349
350
351
352
353
354
355
356
357
358
359
360
361
362
363
364
365
366
367
368
369
370
371
372
373
374
375
376
377
378
379
380
381
382
383
384
385
386
387
388
389
390
391
392
393
394
395
396
397
398
399
400
401
402
403
404
405
406
407
408
409
410
411
412
413
414
415
416
417
418
419
420
421
422
423
424
425
426
427
428
429
430
431
432
433
434
435
436
437
438
439
440
441
442
443
444
445
446
447
448
449
450
451
452
453
454
455
456
457
458
459
460
461
462
463
464
465
466
467
468
469
470
471
472
473
474
475
476
477
478
479
480
481
482
483
484
485
486
487
488
489
490
491
492
493
494
495
496
497
498
499
500
501
502
503
504
505
506
507
508
509
510
511
512
513
514
515
516
517
518
519
520
521
522
523
524
525
526
527
528
529
530
531
532
533
534
535
536
537
538
539
540
541
542
543
544
545
546
547
548
549
550
551
552
553
554
555
556
557
558
559
560
561
562
563
564
565
566
567
568
569
570
571
572
573
574
575
576
577
578
579
580
581
582
583
584
585
586
587
588
589
590
591
592
593
594
595
596
597
598
599
600
601
602
603
604
605
606
607
608
609
610
611
612
613
614
615
616
617
618
619
620
621
622
623
624
625
626
627
628
629
630
631
632
633
634
635
636
637
638
639
640
641
642
643
644
645
646
647
648
649
650
651
652
653
654
655
656
657
658
659
660
661
662
663
664
665
666
667
668
669
670
671
672
673
674
675
676
677
678
679
680
681
682
683
684
685
686
687
688
689
690
691
692
693
694
695
696
697
698
699
700
701
702
703
704
705
706
707
708
709
710
711
712
713
714
715
716
717
718
719
720
721
722
723
724
725
726
727
728
729
730
731
732
733
734
735
736
737
738
739
740
741
742
743
744
745
746
747
748
749
750
751
752
753
754
755
756
757
758
759
760
761
762
763
764
765
766
767
768
769
770
771
772
773
774
775
776
777
778
779
780
781
782
783
784
785
786
787
788
789
790
791
792
793
794
795
796
797
798
799
800
801
802
803
804
805
806
807
808
809
810
811
812
813
814
815
816
817
818
819
820
821
822
823
824
825
826
827
828
829
830
831
832
833
834
835
836
837
838
839
840
841
842
843
844
845
846
847
848
849
850
851
852
853
854
855
856
857
858
859
860
861
862
863
864
865
866
867
868
869
870
871
872
873
874
875
876
877
878
879
880
881
882
883
884
885
886
887
Bệnh phân trắng không làm tôm chết nhanh và chết hàng loạt như bệnh đốm trắng hay bệnh gan tụy cấp, nhưng nếu không khống chế sẽ gây ra những thiệt hại to lớn cho người nuôi tôm...
Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.