Nguồn tin: Nhân Dân, 27/11/2013
Ngày cập nhật:
28/11/2013
Mô hình nuôi cá lồng ở Nam Tân, huyện Nam Sách (Hải Dương) mỗi năm thu lãi hàng trăm triệu đồng. (Ảnh: Quốc Vinh)
Với lợi thế có nhiều hệ thống sông ngòi, diện tích hồ chứa khá lớn nên nghề nuôi cá lồng ở các tỉnh phía bắc đã và đang phát triển khá nhanh, góp phần tạo việc làm, nâng cao đời sống của nhân dân ở các địa phương. Tuy nhiên, nghề nuôi cá lồng ở khu vực phía bắc hiện nay vẫn chủ yếu mang tính tự phát, chưa theo quy hoạch, chưa gắn với bảo vệ môi trường cũng như chưa tạo được hệ thống tiêu thụ và thị trường ổn định.
Tiềm năng mặt nước lớn
Nhờ hệ thống sông lớn như sông Đà, sông Lô, Thái Bình... và các hồ thủy điện Hòa Bình, Sơn La, Tuyên Quang, Ba Bể, Đại Lải, Núi Cốc nên nghề nuôi cá lồng ở các tỉnh phía bắc phát triển khá mạnh. Đặc biệt với ưu điểm là dễ chăm sóc, nuôi mật độ cao, dễ thu hoạch, đầu tư ban đầu không cao, chi phí thức ăn thấp do tận dụng thức ăn sẵn có ở địa phương như lá, củ sắn, lá, hạt ngô băm nhỏ nên tổng chi phí thường không cao.
Qua khảo sát ở một số mô hình nuôi cho thấy lợi nhuận của mô hình nuôi cá lồng trung bình thu được từ 10 đến 45 triệu đồng/lồng/vụ. Hơn nữa, cá được nuôi trong môi trường nước lưu thông, hàm lượng oxy cao, nước sạch, thức ăn phù hợp nên lớn nhanh, cho chất lượng thịt tốt và được người tiêu dùng ưa thích.
Theo Trung tâm Khuyến nông quốc gia, các tỉnh miền bắc có tiềm năng diện tích có thể phát triển nuôi thủy sản lồng, bè là hơn 200.000 ha diện tích mặt nước. Tuy nhiên, các địa phương mới chỉ khai thác được một phần rất nhỏ so với tiềm năng diện tích mặt nước của sông và hồ chứa. Theo thống kê, tổng diện tích lồng nuôi cá ở các tỉnh miền bắc ước khoảng 300.530 m3, số lượng gần 5.000 lồng, với năng suất đạt hơn 2.000 tấn/năm. Trong đó, các tỉnh có số lồng nuôi nhiều như Hòa Bình, Hải Dương, Yên Bái, Phú Thọ, Bắc Cạn, Tuyên Quang…
Các đối tượng nuôi lồng chính chủ yếu là cá truyền thống như trắm cỏ, chép, rô phi và một vài đối tượng cá có giá trị kinh tế khác như cá tầm, diêu hồng, nheo, anh vũ...Trong đó, khu vực đồng bằng sông Hồng trong năm năm trở lại đây, phong trào nuôi cá lồng phát triển rất mạnh với các đối tượng nuôi chính là cá rô phi, diêu hồng, chép V1, lăng, nheo. Năng suất đạt được từ 5 đến 7 tấn cá/lồng (108 m3) tại một số hộ nuôi trên sông Kinh Thầy (Hải Dương), sông Đuống (Bắc Ninh), sông Trà Lý (Thái Bình), sông Hồng (Hà Nam).
Nâng cao đời sống nhân dân
Cũng theo Trung tâm Khuyến nông quốc gia, việc nuôi trồng thủy sản ở các tỉnh phía bắc hiện nay đã dần chuyển sang sản xuất hàng hóa và đang từng bước trở thành một trong những nghề sản xuất chính mang lại hiệu quả cao, góp phần thay đổi cơ cấu kinh tế ở các vùng nông thôn, giải quyết việc làm, tăng thu nhập, xóa đói giảm nghèo. Chất lượng và giá trị của các sản phẩm nuôi trồng ngày càng cao, đóng góp đáng kể cho kim ngạch xuất khẩu thủy sản chung của cả nước.
Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Hòa Bình, hiện nay nghề nuôi cá lồng trên địa bàn đang phát triển khá nhanh. Năm 2009 số lồng nuôi cá chỉ đạt 950 lồng, đến tháng 9 năm 2013 số lồng nuôi cá đã là 1.200 lồng. Các đối tượng nuôi chủ yếu là trắm cỏ, trắm đen, rô phi, trê lai, nheo, ngạnh, chim trắng cũng như một số loại đặc sản như lăng, chiên, bỗng, tầm. Việc nuôi cá lồng chủ yếu tập trung ở các xã ven hồ và được nuôi chủ yếu theo hình thức thâm canh và bán thâm canh.
Qua thống kê, sản lượng cá lồng của Hòa Bình trong những năm qua đã tăng lên khá nhanh từ 400 tấn năm 2010 lên khoảng 800 tấn năm 2013; giá trị kinh tế thu lợi từ nuôi cá lồng (thể tích trung bình là 30 m3) đạt khoảng 40 triệu đồng/lồng/năm.
Chủ tịch UBND xã Hiền Lương, huyện Đà Bắc Xa Văn Chính cho biết: “Hiện nay trên địa bàn có 910 ha diện tích mặt hồ, môi trường nước trong sạch, không bị ô nhiễm do mưa lũ hàng năm vì vậy rất thuận lợi cho việc phát triển nghề nuôi cá lồng. Thời gian gần đây, số lồng cá được nuôi ở lòng hồ đã tăng lên rõ rệt từ 20 lồng năm 2011 phát triển lên 179 lồng năm 2013; thu nhập trừ chi phí đầu tư đạt khoảng 7 đến 10 triệu đồng/lồng. Có nghề nuôi cá lồng, đời sống của hộ dân vùng hồ cải thiện rõ rệt. Thu nhập từ nuôi trồng thủy sản và đánh bắt thủy sản đã chiếm 20% tổng thu nhập của toàn xã”.
Từ lợi thế diện tích mặt nước dọc sông Đà, nguồn nước sạch, phù hợp với nhiều giống cá truyền thống, đặc sản được thị trường ưa chuộng, năm 2011 huyện Thanh Thủy (Phú Thọ) triển khai nuôi thâm canh cá lồng tại một số hộ dân ở xã Xuân Lộc. Đến nay, toàn huyện có hơn 50 lồng nuôi cá trên sông và các hồ chứa, thu hoạch 6-8 tấn/lồng trên mỗi chu kỳ nuôi từ 5-6 tháng. Đối với lồng nuôi trong hồ chứa cho năng suất 4-5 tấn/lồng.
Chúng tôi đến thăm gia đình anh Nguyễn Minh Chí ở khu 4 xã Bảo Yên (Thanh Thủy) đang nuôi 12 lồng cá. Anh Chí cho biết, để có một lồng cá, đầu tư vật liệu, công và mua giống khoảng 60 triệu đồng. Tuy nhiên, hiệu quả kinh tế thu được lại cao và không phải nơm nớp lo dịch bệnh cũng như thị trường tiêu thụ.
Gia đình anh Nguyễn Hoài Văn, khu 8, xã Xuân Lộc (Thanh Thủy) có 20 lồng nuôi cá trắm, rô phi, diêu hồng và cá lăng chấm, năng suất bình quân đạt khoảng 4 tấn/lồng. “Các sản phẩm được tiêu thụ tại các nhà hàng, khách sạn quanh vùng. Trừ chi phí, mỗi lồng gia đình thu lãi gần 40 triệu cho một vụ cá khoảng 5-6 tháng”, anh Văn nói.
Theo Chi cục trưởng Chi cục Thủy sản tỉnh Phú Thọ Nguyễn Thanh Tùng, hiện nay, trên địa bàn có 575 lồng cá, trong đó có 127 lồng nuôi thủy sản thâm canh theo kỹ thuật mới; sản lượng thủy sản từ hoạt động nuôi cá lồng năm 2013 đạt hơn 1.000 tấn. Trong thời gian tới, Chi cục Thủy sản tỉnh Phú Thọ sẽ tiếp tục tuyên truyền, vận động nhằm khuyến khích người dân tham gia nuôi cá lồng. Phấn đấu đến cuối năm 2013 toàn tỉnh có khoảng 150 lồng nuôi thủy sản thâm canh theo kỹ thuật mới.
Nghề nuôi cá lồng nước chảy trên sông tại tỉnh Hải Dương mới phát triển vài năm nay nhưng bước đầu đã mang lại lợi ích rõ nét. Các mô hình nuôi cá giống mới ngày càng được mở rộng phát triển ở nhiều huyện trong tỉnh.
Nếu như năm 2010 có hai hộ thôn Trung Hà, xã Nam Tân (Nam Sách) nuôi cá lồng trên sông Kinh Thầy với quy mô 10 lồng, thì đến nay, tại Hải Dương đã có năm huyện, thị xã, thành phố phát triển nghề nuôi cá lồng với 540 lồng nuôi cá, năng suất bình quân là 7,6 tấn/lồng; sản lượng nuôi cá lồng năm 2012 đạt 3.677 tấn chiếm 6,3% tổng sản lượng cá nuôi toàn tỉnh.
Qua thống kê, mỗi lồng cá rô phi cho lãi gần 30 triệu đồng; diêu hồng khoảng 60 triệu đồng; trắm, chép giòn lãi 85 đến 96 triệu đồng. Với chi phí hơn 20 triệu đồng để lắp đặt hoàn thiện một lồng nuôi cá, nếu làm ăn thuận lợi thì chỉ sau nửa năm người nuôi cá lồng đã có thực lãi.
Nghề nuôi mang tính tự phát
Tiềm năng để phát triển nghề nuôi cá lồng ở các tỉnh phía bắc là rất lớn nhưng hiện nay các địa phương vẫn chưa khai thác hết. Mặc dù năm 2013, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã nghiệm thu quy hoạch phát triển nghề cá hồ chứa đến năm 2020. Đây là căn cứ để các địa phương xây dựng quy hoạch chi tiết và triển khai các dự án nuôi cá lồng, bè trên sông, suối, hồ chứa.
Trên thực tế một số địa phương đã có quy hoạch nuôi trồng thủy sản, trong đó quan tâm tới nuôi lồng bè nhưng cơ quan chuyên môn không chủ động tham mưu đề xuất để UBND các tỉnh phê duyệt triển khai thực hiện các dự án nuôi cá lồng bè tập trung, các mô hình trình diễn, cơ chế khuyến khích phát triển dẫn đến quy hoạch không được thực hiện.
Bên cạnh đó, nghề nuôi cá lồng vẫn mang tính tự phát, chưa theo quy hoạch, phát triển sản xuất chưa gắn với bảo vệ môi trường, mùa mưa lũ dễ gặp rủi ro nên không bền vững. Hơn nữa, việc phát triển nghề nuôi cá lồng chưa thành vùng chuyên canh tập trung nên việc tạo được hệ thống tiêu thụ và thị trường ổn định gặp khó khăn.
Nhiều vùng hồ rộng lớn chủ yếu chỉ khai thác tự nhiên chưa được tổ chức thành nghề nuôi cá hồ và có sự hỗ trợ đầu tư cũng như quản lý của Nhà nước để hình thành các vùng nuôi cá bè hàng hóa tập trung và các dịch vụ kèm theo. Đối với một số đối tượng nuôi mới, thủy đặc sản bản địa có giá trị cao, hiện chưa chủ động được công nghệ sản xuất giống nhân tạo.
Khu vực trung du miền núi phía bắc người dân phần lớn là người đồng bào dân tộc thiểu số, kỹ thuật nuôi cá lồng bè còn nhiều hạn chế, vật liệu làm lồng chủ yếu tận dụng nguồn nguyên liệu tự nhiên sẵn có như tre, nứa, gỗ... không đáp ứng đủ yêu cầu về kỹ thuật. Người dân nuôi cá truyền thống vẫn theo hình thức thả cá, thiếu sự chăm sóc, không có kỹ thuật quản lý môi trường và phòng trừ dịch bệnh nên sản lượng cá nuôi năng suất chưa cao. Trung bình các đối tượng nuôi lồng chỉ đạt năng suất 7 kg/m3.
Vụ Nuôi trồng Thủy sản cho biết, phấn đấu đến năm 2014 nuôi cá lồng bè cả nước sẽ đạt khoảng 14.000 ha, sản lượng đạt 300.000 tấn. Để làm được điều đó, các địa phương cần thực hiện các dự án nuôi cá lồng bè tập trung, các mô hình trình diễn, có cơ chế khuyến khích phát triển để thu hút người dân và doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất giống, nuôi trồng thủy sản, cá nước lạnh ở vùng có điều kiện khó khăn và nghề cá hồ chứa. Bên cạnh đó cần xây dựng các mô hình tổ chức sản xuất theo hình thức tổ hợp tác, hợp tác xã, câu lạc bộ, chi hội nuôi thủy sản; xây dựng mối liên kết chặt chẽ giữa sản xuất và tiêu thụ; quản lý chặt các hoạt động về cung ứng giống, thức ăn, xử lý dịch bệnh, chú trọng bảo vệ môi trường nước; tiếp tục rà soát và ban hành chính sách hỗ trợ nghề nuôi cá lồng, nhất là chính sách khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện bao tiêu sản phẩm với các cơ sở nuôi, tạo vùng cung ổn định và bảo đảm an toàn thực phẩm…
HOÀNG HÙNG, NGỌC LONG VÀ QUỐC VINH
- Kỹ thuật nuôi tôm, nuôi cá, phòng trị bệnh tôm, cá và các loại thủy sản khác
Các tin mới
Các tin năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009 | 2008 | 2007:
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
38
39
40
41
42
43
44
45
46
47
48
49
50
51
52
53
54
55
56
57
58
59
60
61
62
63
64
65
66
67
68
69
70
71
72
73
74
75
76
77
78
79
80
81
82
83
84
85
86
87
88
89
90
91
92
93
94
95
96
97
98
99
100
101
102
103
104
105
106
107
108
109
110
111
112
113
114
115
116
117
118
119
120
121
122
123
124
125
126
127
128
129
130
131
132
133
134
135
136
137
138
139
140
141
142
143
144
145
146
147
148
149
150
151
152
153
154
155
156
157
158
159
160
161
162
163
164
165
166
167
168
169
170
171
172
173
174
175
176
177
178
179
180
181
182
183
184
185
186
187
188
189
190
191
192
193
194
195
196
197
198
199
200
201
202
203
204
205
206
207
208
209
210
211
212
213
214
215
216
217
218
219
220
221
222
223
224
225
226
227
228
229
230
231
232
233
234
235
236
237
238
239
240
241
242
243
244
245
246
247
248
249
250
251
252
253
254
255
256
257
258
259
260
261
262
263
264
265
266
267
268
269
270
271
272
273
274
275
276
277
278
279
280
281
282
283
284
285
286
287
288
289
290
291
292
293
294
295
296
297
298
299
300
301
302
303
304
305
306
307
308
309
310
311
312
313
314
315
316
317
318
319
320
321
322
323
324
325
326
327
328
329
330
331
332
333
334
335
336
337
338
339
340
341
342
343
344
345
346
347
348
349
350
351
352
353
354
355
356
357
358
359
360
361
362
363
364
365
366
367
368
369
370
371
372
373
374
375
376
377
378
379
380
381
382
383
384
385
386
387
388
389
390
391
392
393
394
395
396
397
398
399
400
401
402
403
404
405
406
407
408
409
410
411
412
413
414
415
416
417
418
419
420
421
422
423
424
425
426
427
428
429
430
431
432
433
434
435
436
437
438
439
440
441
442
443
444
445
446
447
448
449
450
451
452
453
454
455
456
457
458
459
460
461
462
463
464
465
466
467
468
469
470
471
472
473
474
475
476
477
478
479
480
481
482
483
484
485
486
487
488
489
490
491
492
493
494
495
496
497
498
499
500
501
502
503
504
505
506
507
508
509
510
511
512
513
514
515
516
517
518
519
520
521
522
523
524
525
526
527
528
529
530
531
532
533
534
535
536
537
538
539
540
541
542
543
544
545
546
547
548
549
550
551
552
553
554
555
556
557
558
559
560
561
562
563
564
565
566
567
568
569
570
571
572
573
574
575
576
577
578
579
580
581
582
583
584
585
586
587
588
589
590
591
592
593
594
595
596
597
598
599
600
601
602
603
604
605
606
607
608
609
610
611
612
613
614
615
616
617
618
619
620
621
622
623
624
625
626
627
628
629
630
631
632
633
634
635
636
637
638
639
640
641
642
643
644
645
646
647
648
649
650
651
652
653
654
655
656
657
658
659
660
661
662
663
664
665
666
667
668
669
670
671
672
673
674
675
676
677
678
679
680
681
682
683
684
685
686
687
688
689
690
691
692
693
694
695
696
697
698
699
700
701
702
703
704
705
706
707
708
709
710
711
712
713
714
715
716
717
718
719
720
721
722
723
724
725
726
727
728
729
730
731
732
733
734
735
736
737
738
739
740
741
742
743
744
745
746
747
748
749
750
751
752
753
754
755
756
757
758
759
760
761
762
763
764
765
766
767
768
769
770
771
772
773
774
775
776
777
778
779
780
781
782
783
784
785
786
787
788
789
790
791
792
793
794
795
796
797
798
799
800
801
802
803
804
805
806
807
808
809
810
811
812
813
814
815
816
817
818
819
820
821
822
823
824
825
826
827
828
829
830
831
832
833
834
835
836
837
838
839
840
841
842
843
844
845
846
847
848
849
850
851
852
853
854
855
856
857
858
859
860
861
862
863
864
865
866
867
868
869
870
871
872
873
874
875
876
877
878
879
880
881
882
883
884
885
886
887
Bệnh phân trắng không làm tôm chết nhanh và chết hàng loạt như bệnh đốm trắng hay bệnh gan tụy cấp, nhưng nếu không khống chế sẽ gây ra những thiệt hại to lớn cho người nuôi tôm...
Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.