Nguồn tin: Nhân Dân, 1/11/2008
Ngày cập nhật:
2/11/2008
Chuẩn bị ngư cụ ra khơi đánh bắt thủy, hải sản.
Chưa hết những khó khăn do xăng, dầu tăng giá, ngư dân lại lao đao vì giá hải sản giảm tới 20 - 40%. Trong bối cảnh ấy để duy trì và phát triển nghề biển, nhất là với đánh bắt xa bờ (ÐBXB) quả là bài toán không dễ tìm lời giải. Nhưng ngư dân vẫn không thể bỏ nghề...
Theo ông Ðặng Ngọc Phú, một chủ tàu ÐBXB ở Tam Quan Bắc (Hoài Nhơn, Bình Ðịnh) thì so với cùng kỳ năm ngoái, chi phí cho mỗi chuyến biển năm nay tăng hơn 30%; hiện giá dầu giảm nhưng vì giá các loại hải sản lại giảm mạnh (thí dụ như cá mối, cá lở, cá xù trước đây 10 - 13.000 đồng/kg, giờ chỉ còn 6-7000 đồng/kg; mực một số loại từ 40 - 45.000 đồng/kg, giảm còn 30.000 đồng/kg...). Gần như chuyến biển nào ngư dân cũng lỗ, Nhà nước bù lỗ cũng chỉ được phần nào. Cùng với việc tăng giá dầu và chi phí sản xuất, nguồn lợi thủy sản ngày càng giảm sút, trong khi việc chuyển nghề vươn ra đánh bắt xa bờ hạn chế do ngư dân thiếu vốn đầu tư và chính sách hỗ trợ phù hợp; thời tiết cũng diễn biến phức tạp, bão lũ liên tiếp làm giảm thời gian bám biển... Tất cả các yếu tố trên đang là những trở ngại, thách thức lớn đối với hoạt động nghề cá, nhất là lực lượng ÐBXB.
Theo con số thống kê chưa đầy đủ, số lượng tàu, thuyền ÐBXB của các tỉnh khu vực Nam Trung Bộ hiện có gần 20.000 chiếc. Trong đó Bình Ðịnh là địa phương có số lượng tàu, thuyền ÐBXB nhiều nhất, gần 6.500 chiếc với tổng công suất 250.000 CV. Hơn 60% tổng số tàu được trang bị khá đầy đủ các thiết bị hiện đại đủ điều kiện vươn ra đánh bắt và di chuyển ngư trường trên phạm vi rộng để khai thác quanh năm. Tuy nhiên, đội tàu ÐBXB của miền trung và các địa phưong khu vực Nam Trung Bộ nhiều hạn chế về năng lực, trình độ quản lý, tay nghề sử dụng, khai thác phương tiện, thiết bị; đội ngũ thuyền viên hầu như chưa có tính chuyên nghiệp; kỹ thuật đánh bắt phần lớn nặng kinh nghiệm truyền thống; việc vận dụng kiến thức, kỹ thuật đánh bắt, bảo quản theo công nghệ tiên tiến nhiều hạn chế. Nhất là sự yếu kém của hoạt động dịch vụ hậu cần nghề cá.
Việc gắn kết giữa các đơn vị thu mua, chế biến xuất khẩu với người sản xuất chưa có được những quy định ràng buộc. Các cơ sở thu mua hiện nay phần lớn đều là trạm trung chuyển với trang thiết bị thiếu, chưa đáp ứng yêu cầu vệ sinh an toàn thực phẩm; tình trạng ép cấp, ép giá; tranh mua, tranh bán xảy ra thường xuyên làm giá thu mua thấp và bấp bênh, ngư dân thiệt thòi. Một điều đáng lo ngại là tình trạng mua xô vẫn còn khá phổ biến, dẫn đến việc các chủ tàu chưa quan tâm đúng mức khâu bảo quản hải sản, làm giảm chất lượng sản phẩm, giảm giá trị xuất khẩu và hiệu quả sản xuất. Mặt khác hệ thống cầu cảng, bến cá, khu neo đậu tránh bão ở nhiều tỉnh mới chỉ đáp ứng khoảng 50% số lượng tàu, thuyền neo đậu, bán sản phẩm và sửa chữa, bảo dưỡng... Những hạn chế chủ quan, lẫn những yếu tố khách quan đã làm cho hiệu quả sản xuất nghề cá, nhất là ÐBXB có nguy cơ giảm sút... Vậy đâu là giải pháp duy trì và hướng đến sự phát triển có tính bền vững của nghề ÐBXB?
Ðến nay nhiều địa phương khu vực Nam Trung Bộ bước đầu thực hiện một số giải pháp - có tính mô hình trong hoạt động nghề cá; tuy mới chỉ là bước đầu nhưng hiệu quả của nó đã và đang có sức thu hút ngư dân. Ðó là liên kết sản xuất dưới hình thức "Tổ đoàn kết" nhằm giúp nhau về kỹ thuật, ngư trường, đánh bắt, hỗ trợ trong hoạn nạn, thiên tai. Trước hết các Tổ đoàn kết được hình thành trong anh em tộc họ với 3-4 tàu ÐBXB được trang bị khá đầy đủ cùng ra khơi. Khi đến ngư trường, phân công nhau đi tìm luồng cá. Khi phát hiện được thì thông báo cho nhau cùng đến khai thác. Cá đánh bắt được dồn lại cho một tàu chở về đất liền và mua thêm dầu, lương thực, nhu yếu phẩm ra tiếp tế cho các tàu đang bám biển. Bên cạnh đó, có thêm hình thức liên kết cùng nghề, khác nghề (như câu cá ngừ, rút chì, câu mực...) được phát huy. Nhiều nhóm tàu cùng nghề hay khác nghề khai thác cùng ngư trường liên kết, hỗ trợ nhau về thông tin ngư trường (và khắc phục các sự cố trên biển). Khi phát hiện đàn cá lớn thì gọi thêm tàu khác đến cùng khai thác. Phương thức ăn chia hoặc là thỏa thuận trước hoặc dựa vào sự hỗ trợ trong quá trình khai thác để chia theo tỷ lệ từ 15 đến 30% tổng số hải sản đánh bắt được. Cùng với sự hỗ trợ, hợp tác trong đánh bắt, các Tổ đoàn kết bước đầu thực hiện việc tổ chức quản lý, chỉ đạo sản xuất. Trước khi ra biển, các tổ nghiên cứu kỹ ngư trường, thời tiết để bố trí sản xuất hợp lý, hạn chế sự cố. Sau mỗi chuyến biển, kịp thời rút kinh nghiệm các sai sót trong các khâu khai thác; coi trọng việc trao đổi, học tập nâng cao khả năng ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật và đổi mới công nghệ khai thác, bảo quản... Ðến nay hầu hết các địa phương trong khu vực đều đã hình thành các Tổ đoàn kết ÐBXB (riêng Bình Ðịnh có 52 tổ).
Hai là, phát triển đội tàu làm dịch vụ trên biển. Các tàu này đều có trọng tải và công suất lớn vừa phục vụ bán dầu, đá, lương thực, nước ngọt, nhu yếu phẩm khác cho các tàu ÐBXB theo yêu cầu từng tàu và trong từng thời điểm, vừa tổ chức thu mua hải sản của các tàu đánh bắt được theo phương thức mua bán linh hoạt, giá cả hợp lý được ngư dân chấp nhận... Do được phục vụ hậu cần tại chỗ nên thời gian bám biển của các tàu ÐBXB tăng lên, chi phí sản xuất giảm, hiệu quả sản xuất của các tàu ÐBXB bước đầu tăng cho dù trong điều kiện nhiều bất lợi về giá cả đầu vào lẫn đầu ra như hiện nay. Mô hình này phát triển mạnh ở các tỉnh Khánh Hòa, Ninh Thuận...
Tuy nhiên, nhìn trên tổng thể như đánh giá của đồng chí Nguyễn Văn Mong, Phó Giám đốc Sở NN-PTNT Bình Ðịnh, cho thấy các mô hình trên ra đời mang tính tự phát nên bên cạnh những ưu điểm, không tránh khỏi những hạn chế, khiếm khuyết cần được khắc phục và nâng lên một bước "tự giác". Ðiều này đòi hỏi phải có vai trò tác động của các cơ quan quản lý Nhà nước các cấp. Mặt khác, cần nhấn mạnh hơn, mặc dù những mô hình trên đã và đang phát huy tác dụng tích cực của nó trên thực tế hoạt động nghề cá. Nhưng rõ ràng đây không thể là "chiếc gậy vạn năng"- là tất cả để có thể "hóa giải"mọi khó khăn của nghề cá nói chung - nhất là với ÐBXB. Bởi vậy, ngoài việc cần tiếp tục hoàn thiện và nhân rộng các mô hình trên thì điều quan trọng vẫn là sự nỗ lực chủ quan từ phía ngư dân và việc hỗ trợ hơn nữa của Nhà nước trong chiến lược xây dựng nghề cá theo hướng chuyên môn hóa, hiện đại hóa như các nước có trình độ nghề cá tiên tiến... Muốn đạt năng suất cao, trong đánh bắt hải sản đòi hỏi phải có tay nghề cao cùng phương tiện, công cụ làm nghề hiện đại và đủ sức ứng dụng tiến bộ kỹ thuật trong và sau khai thác...
Ðể làm được những yêu cầu trên ngoài ý thức vươn lên của ngư dân, cần hơn là sự hỗ trợ của Nhà nước các cấp trong vấn đề thực hiện các giải pháp đồng bộ. Trong đó có việc chú trọng tăng mức đầu tư cho hoạt động của ngành để tổ chức các lớp tập huấn, đào tạo nâng cao tay nghề, kỹ thuật, khả năng ứng dụng tiến bộ kỹ thuật đánh bắt, bảo quản sản phẩm cũng như các kiến thức về an toàn trên biển cho ngư dân. Trước mắt, bên cạnh việc đẩy nhanh tiến độ giải ngân thực hiện Quyết định 289 của Chính phủ về hỗ trợ xăng dầu cho ngư dân, về lâu dài, nghề cá phải được tập trung tổ chức lại sản xuất, quy hoạch theo hướng phát triển số lượng tàu ÐBXB một cách hợp lý (trên cơ sở nhân lực, nguồn lực, ngư trường, v.v.); nhân rộng mô hình làm ăn cộng đồng (trước mắt cần sớm tổng kết, đồng thời bổ sung hoàn thiện và nhân rộng hai mô hình trên) và phát triển mạnh các HTX dịch vụ hậu cần nghề cá theo mô hình quản lý mới. Mặt khác, Nhà nước cần tiếp tục đầu tư mạnh hơn để xây dựng các cảng cá, khu neo đậu tàu, thuyền (mà trọng tâm là cần sớm hoàn thành kế hoạch xây dựng hệ thống 98 khu neo đậu tàu, thuyền theo Quyết định 288/2005 của Thủ tướng Chính phủ về "Phê duyệt điều chỉnh quy hoạch neo đậu tránh trú bão cho tàu cá đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020") ; các trung tâm dịch vụ bảo đảm phục vụ phát triển khai thác hải sản xa bờ; sớm hình thành các "chợ cá" trên biển; hình thành một "dây chuyền" với các ràng buộc chặt chẽ từ đánh bắt, thu mua, chế biến hải sản giữa các đơn vị, địa phương và ngư dân để thực hiện hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau, nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế và an toàn trong SX-KD lĩnh vực nghề cá và khai thác kinh tế biển nói chung...
MAI TRUNG
- Kỹ thuật nuôi tôm, nuôi cá, phòng trị bệnh tôm, cá và các loại thủy sản khác
Các tin mới
Các tin năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009 | 2008 | 2007:
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
38
39
40
41
42
43
44
45
46
47
48
49
50
51
52
53
54
55
56
57
58
59
60
61
62
63
64
65
66
67
68
69
70
71
72
73
74
75
76
77
78
79
80
81
82
83
84
85
86
87
88
89
90
91
92
93
94
95
96
97
98
99
100
101
102
103
104
105
106
107
108
109
110
111
112
113
114
115
116
117
118
119
120
121
122
123
124
125
126
127
128
129
130
131
132
133
134
135
136
137
138
139
140
141
142
143
144
145
146
147
148
149
150
151
152
153
154
155
156
157
158
159
160
161
162
163
164
165
166
167
168
169
170
171
172
173
174
175
176
177
178
179
180
181
182
183
184
185
186
187
188
189
190
191
192
193
194
195
196
197
198
199
200
201
202
203
204
205
206
207
208
209
210
211
212
213
214
215
216
217
218
219
220
221
222
223
224
225
226
227
228
229
230
231
232
233
234
235
236
237
238
239
240
241
242
243
244
245
246
247
248
249
250
251
252
253
254
255
256
257
258
259
260
261
262
263
264
265
266
267
268
269
270
271
272
273
274
275
276
277
278
279
280
281
282
283
284
285
286
287
288
289
290
291
292
293
294
295
296
297
298
299
300
301
302
303
304
305
306
307
308
309
310
311
312
313
314
315
316
317
318
319
320
321
322
323
324
325
326
327
328
329
330
331
332
333
334
335
336
337
338
339
340
341
342
343
344
345
346
347
348
349
350
351
352
353
354
355
356
357
358
359
360
361
362
363
364
365
366
367
368
369
370
371
372
373
374
375
376
377
378
379
380
381
382
383
384
385
386
387
388
389
390
391
392
393
394
395
396
397
398
399
400
401
402
403
404
405
406
407
408
409
410
411
412
413
414
415
416
417
418
419
420
421
422
423
424
425
426
427
428
429
430
431
432
433
434
435
436
437
438
439
440
441
442
443
444
445
446
447
448
449
450
451
452
453
454
455
456
457
458
459
460
461
462
463
464
465
466
467
468
469
470
471
472
473
474
475
476
477
478
479
480
481
482
483
484
485
486
487
488
489
490
491
492
493
494
495
496
497
498
499
500
501
502
503
504
505
506
507
508
509
510
511
512
513
514
515
516
517
518
519
520
521
522
523
524
525
526
527
528
529
530
531
532
533
534
535
536
537
538
539
540
541
542
543
544
545
546
547
548
549
550
551
552
553
554
555
556
557
558
559
560
561
562
563
564
565
566
567
568
569
570
571
572
573
574
575
576
577
578
579
580
581
582
583
584
585
586
587
588
589
590
591
592
593
594
595
596
597
598
599
600
601
602
603
604
605
606
607
608
609
610
611
612
613
614
615
616
617
618
619
620
621
622
623
624
625
626
627
628
629
630
631
632
633
634
635
636
637
638
639
640
641
642
643
644
645
646
647
648
649
650
651
652
653
654
655
656
657
658
659
660
661
662
663
664
665
666
667
668
669
670
671
672
673
674
675
676
677
678
679
680
681
682
683
684
685
686
687
688
689
690
691
692
693
694
695
696
697
698
699
700
701
702
703
704
705
706
707
708
709
710
711
712
713
714
715
716
717
718
719
720
721
722
723
724
725
726
727
728
729
730
731
732
733
734
735
736
737
738
739
740
741
742
743
744
745
746
747
748
749
750
751
752
753
754
755
756
757
758
759
760
761
762
763
764
765
766
767
768
769
770
771
772
773
774
775
776
777
778
779
780
781
782
783
784
785
786
787
788
789
790
791
792
793
794
795
796
797
798
799
800
801
802
803
804
805
806
807
808
809
810
811
812
813
814
815
816
817
818
819
820
821
822
823
824
825
826
827
828
829
830
831
832
833
834
835
836
837
838
839
840
841
842
843
844
845
846
847
848
849
850
851
852
853
854
855
856
857
858
859
860
861
862
863
864
865
866
867
868
869
870
871
872
873
874
875
876
877
878
879
880
881
882
883
884
885
886
887
Bệnh phân trắng không làm tôm chết nhanh và chết hàng loạt như bệnh đốm trắng hay bệnh gan tụy cấp, nhưng nếu không khống chế sẽ gây ra những thiệt hại to lớn cho người nuôi tôm...
Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.