Nguồn tin: Báo Cần Thơ, 16/06/2009
Ngày cập nhật:
17/6/2009
Thủy sản là một trong những ngành kinh tế đem lại kim ngạch xuất khẩu cao cho Việt Nam, với tốc độ tăng trưởng bình quân 18%/năm. Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, hàng thủy sản đã có mặt ở khoảng 160 thị trường trên thế giới. Sau khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), mặt hàng thủy sản càng có điều kiện phát triển thuận lợi hơn. Tuy nhiên, ngành thủy sản cũng gặp phải không ít thách thức từ việc áp dụng các qui định của WTO... Việc xây dựng kế hoạch hành động quốc gia về phát triển và tăng trưởng bền vững cho ngành thủy sản là rất cần thiết và cấp bách!
THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU THỦY SẢN
Năm 2008, xuất khẩu thủy sản đạt 4,5 tỉ USD với sản lượng trên 4,5 triệu tấn. Hiện nay, trong cả nước có khoảng 120.000 tàu thuyền nghề cá. Tổng diện tích sử dụng cho mục đích nuôi trồng thủy sản toàn quốc khoảng 1,1 triệu ha, với sản lượng (năm 2008) đạt 2,3 triệu tấn, trong đó cá tra, ba sa chiếm 1,3 triệu tấn, 450.000 tấn là tôm nước ngọt và lợ, còn lại là các mặt hàng thủy, hải sản khác. Trong các nước xuất khẩu thủy sản trên thế giới, Việt Nam được coi là một trong những nước có tốc độ tăng trưởng thủy sản nhanh nhất, với tốc độ tăng trưởng trung bình trong giai đoạn1998-2008 đạt 18%/năm. Kể từ năm 2001, Việt Nam đã có tên trong nhóm 10 nước có xuất khẩu thủy sản mạnh nhất trên thế giới.
Hiện nay, hàng thủy sản Việt Nam chiếm 3,7% thị phần trên thế giới và 0,3% tổng kim ngạch của toàn thế giới. Theo qui ước, nhóm sản phẩm nào có thị phần cao hơn chỉ số này được coi là “vượt mức” tức là có đủ năng lực cạnh tranh. Ba khối thị trường chính của xuất khẩu thủy sản của Việt Nam là Nhật Bản, Mỹ và EU với khoảng 60% tổng giá trị xuất khẩu thủy sản. Ngoài ra, hàng thủy sản Việt Nam cũng đang bắt đầu thâm nhập vào thị trường mới phát triển như: Đông Âu, Trung Đông, châu Mỹ...
Tôm đông lạnh và phi-lê cá tra, ba sa đông lạnh là hai mặt hàng thủy sản xuất khẩu chủ lực. Năm 2008, khối lượng của hai mặt hàng này là 832.382 tấn, chiếm 67,33% tổng khối lượng xuất khẩu thủy sản, với kim ngạch đạt 3.078 triệu USD, chiếm 75,84%. Trong đó, tôm đông lạnh đạt 191.553 tấn, trị giá hơn 1,6 tỉ USD, tăng 18,8% về khối lượng và 7,7% về giá trị so với năm 2007, chiếm 31,6% tổng giá trị xuất khẩu thủy sản. Các thị trường xuất khẩu chính của mặt hàng này là Nhật Bản, Mỹ và EU. Năm qua, Nhật Bản là nhà nhập khẩu tôm Việt Nam với khối lượng 58.533 tấn, chiếm 30,56% với trị giá gần 499 triệu USD. Tuy sau vụ kiện chống bán phá giá tôm, thị phần tại Mỹ đã bị thu hẹp, nhưng thị trường này vẫn đứng ở vị trí thứ hai trong các nhà nhập khẩu tôm. Năm ngoái, thị trường này đã nhập khẩu 46.829 tấn (14,45%), trị giá 467,279 triệu USD.
Tiếp đến là cá, đây là nhóm sản phẩm nhiều năm nay trở thành thế mạnh trong xuất khẩu thủy sản. Đặc biệt, với sản phẩm cá tra và cá ba sa đã được người tiêu dùng không chỉ tại Mỹ ưa chuộng mà ngày càng thể hiện rõ ưu thế tại thị trường các nước trong khối EU. Trong năm 2008 khối lượng xuất khẩu mặt hàng này đã tăng 65,6% so với năm 2007, đạt hơn 640 tấn, trị giá trên1,4 tỉ USD.
Nhận định về xuất khẩu thủy sản của Việt Nam, ông Andun Lem, cán bộ Tổ chức Lương nông Liên Hiệp Quốc (FAO) cho rằng: “Việt Nam hiện nay không chỉ là một nước đi đầu trong xuất khẩu nông sản với các mặt hàng như cà phê, điều... mà đã trở thành 1 trong 4 nước xuất khẩu thủy sản lớn nhất thế giới. Tôi đánh giá cao về điều này và mong muốn hợp tác với Việt Nam trong việc hỗ trợ kỹ thuật cũng như kinh phí để phát triển nuôi trồng và xuất khẩu thủy sản tại Việt Nam, cũng như chia sẻ kinh nghiệm nuôi trồng và xuất khẩu thủy sản của Việt Nam cho những nước khác”.
GIẢI PHÁP NÀO VƯỢT QUA THÁCH THỨC?
Vấn đề lớn nhất đối với sự phát triển của ngành thủy sản Việt Nam hiện nay là sự mất cân đối về nhận thức cũng như hành động của các thành phần khác nhau trong chuỗi giá trị. Nghề nuôi trồng và khai thác thủy sản về cơ bản vẫn được đặt trong chế độ “tiếp cận tự do”, việc quản lý chỉ là hành vi mang tính đối phó từng vụ việc. Nuôi trồng tự phát đã đe dọa đến môi trường và sự phát triển bền vững, thông tin thị trường không thông suốt, thiếu mối liên kết giữa các thành phần trong chuỗi hệ thống, gây nên nhiều trở ngại trong xuất khẩu như: nhiễm bẩn sản phẩm, dư lượng kháng sinh...
Trong hệ thống bán lẻ thủy sản hiện nay chủ yếu thông qua các chợ thông thường. Ở đó, thủy sản được bán chung với rất nhiều loại thực phẩm khác. Cho đến nay chưa có một chợ bán buôn hay trung tâm đấu giá chuyên thủy sản, kể cả sản phẩm làm nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu để tiêu dùng trong nước. Chính những lý do trên nên ngành thủy sản đã không ít lần gặp phải những trở ngại trên những thị trường nhập khẩu.
Chưa kể, hệ thống tổ chức quản lý an toàn vệ sinh thực phẩm thủy sản còn tồn tại nhiều vướng mắc như trong vấn đề chậm trễ cập nhật các văn bản pháp quy để phù hợp với các thị trường xuất khẩu, hệ thống cán bộ phần lớn chưa được đào tạo chuyên sâu, quản lý hàng thủy sản chưa được thực hiện bài bản... cũng tạo nhiều khó khăn, thách thức trong xuất khẩu thủy sản.
Mới đây, tại TP Cần Thơ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) phối hợp FAO cùng xây dựng dự án “Hành động quốc gia về phát triển bền vững ngành thủy sản sau khi gia nhập WTO giai đoạn 2010-2012” với sự tham gia của các chuyên gia, tư vấn trong và ngoài nước.
Tại hội thảo, các ý kiến cho rằng, để phát triển bền vững cho ngành thủy sản cần tập trung vào 3 nhóm chính: rà soát, sửa đổi hoàn thiện hệ thống pháp luật, khả thi phù hợp với trình độ phát triển và vị trí của Việt Nam trong cộng đồng nghề cá thế giới, bảo đảm hài hòa với hệ thống hiệp định và cam kết quốc tế về phát triển nghề cá. Kế đến là tăng cường năng lực hệ thống quản lý, xây dựng chính sách và bảo đảm thi hành luật. Cuối cùng, đẩy mạnh các mối quan hệ hợp tác, liên kết các thành viên trong chuỗi giá trị bởi các mối liên kết này là cơ sở để thực hiện luật và các giải pháp quản lý...
Vùng ĐBSCL có tốc độ tăng trưởng khá nhanh về diện tích nuôi tôm, cá tra, ba sa nên việc tìm ra các giải pháp cho sự phát triển bền vững là một vấn đề cấp bách. Chỉ tính riêng trên địa bàn TP Cần Thơ, diện tích nuôi thủy sản hơn 1.300 ha, với khoảng 980 ha diện tích mặt nước với 3 loại hình nuôi là thâm canh, nuôi cá địa phương và nuôi cá trên ruộng. Đặc biệt, diện tích nuôi cá tra có tốc độ phát triển nhanh nhưng người dân chủ yếu là nuôi tự phát, vùng nuôi chưa có qui hoạch tổng thể, nên người dân luôn phải chạy theo giá, tình trạng thua lỗ ngày càng nhiều, chưa kể môi trường cũng bị ô nhiễm.
Để tìm giải pháp cho sự phát triển ngành thủy sản bền vững, Ông Phạm Văn Quỳnh, Giám đốc Sở NN&PTNT TP Cần Thơ, cho biết: “Để hướng đến sự phát triển bền vững, bảo vệ môi trường, hiện nay ngành đang thí điểm và hướng người dân nuôi theo qui trình sạch (GAP, SQF), với chủ trương là sẽ xây dựng sản phẩm theo khung chất lượng, sản phẩm an toàn, giá thành thấp, chi phí sản xuất thấp sẽ đối phó được các loại giá thu mua mà khó có thể lỗ và an toàn cho môi trường nước”.
Với điều kiện tự nhiên và hạ tầng cơ sở chế biến, có thể khẳng định rằng Việt Nam nói chung và ĐBSCL nói riêng có khả năng và tiềm lực rất lớn để xuất khẩu thủy, hải sản. Tuy nhiên, cần phải tạo ra một mặt bằng tốt, hệ thống giá trị đồng đều cùng với hỗ trợ của khung pháp luật để phù hợp với pháp luật của các nước nhập khẩu thì mới mở đường cho xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam ra thế giới một cách bền vững.
Trong Hội nghị chuyên đề “Chiến lược phát triển ngành thủy sản Việt Nam đến năm 2020” vừa tổ chức vào tháng 5-2009, Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Vũ Văn Tám cho rằng: giải pháp phát triển chung cho ngành thủy sản là phải chú trọng chất lượng và giá trị, mở rộng hơn về diện tích và tổng sản lượng. Phát triển một số sản phẩm chủ lực như: các sản phẩm đặc sản bản địa; đồng thời rà soát lại các chương trình dự án, từ đó đưa ra các chương trình dự án mới. Bên cạnh việc mở rộng diện tích nuôi tôm công nghiệp, nuôi sinh thái; điều chỉnh quy mô sản xuất cá tra, tôm các loại theo nhu cầu thị trường, các địa phương cũng cần tạo điều kiện thuận lợi cho đầu tư nâng cao năng lực các cơ sở sản xuất giống chất lượng và sạch bệnh, bảo đảm nguyên liệu cho sản xuất.
KHÁNH NAM
- Kỹ thuật nuôi tôm, nuôi cá, phòng trị bệnh tôm, cá và các loại thủy sản khác
Các tin mới
Các tin năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009 | 2008 | 2007: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 61 62 63 64 65 66 67 68 69 70 71 72 73 74 75 76 77 78 79 80 81 82 83 84 85 86 87 88 89 90 91 92 93 94 95 96 97 98 99 100 101 102 103 104 105 106 107 108 109 110 111 112 113 114 115 116 117 118 119 120 121 122 123 124 125 126 127 128 129 130 131 132 133 134 135 136 137 138 139 140 141 142 143 144 145 146 147 148 149 150 151 152 153 154 155 156 157 158 159 160 161 162 163 164 165 166 167 168 169 170 171 172 173 174 175 176 177 178 179 180 181 182 183 184 185 186 187 188 189 190 191 192 193 194 195 196 197 198 199 200 201 202 203 204 205 206 207 208 209 210 211 212 213 214 215 216 217 218 219 220 221 222 223 224 225 226 227 228 229 230 231 232 233 234 235 236 237 238 239 240 241 242 243 244 245 246 247 248 249 250 251 252 253 254 255 256 257 258 259 260 261 262 263 264 265 266 267 268 269 270 271 272 273 274 275 276 277 278 279 280 281 282 283 284 285 286 287 288 289 290 291 292 293 294 295 296 297 298 299 300 301 302 303 304 305 306 307 308 309 310 311 312 313 314 315 316 317 318 319 320 321 322 323 324 325 326 327 328 329 330 331 332 333 334 335 336 337 338 339 340 341 342 343 344 345 346 347 348 349 350 351 352 353 354 355 356 357 358 359 360 361 362 363 364 365 366 367 368 369 370 371 372 373 374 375 376 377 378 379 380 381 382 383 384 385 386 387 388 389 390 391 392 393 394 395 396 397 398 399 400 401 402 403 404 405 406 407 408 409 410 411 412 413 414 415 416 417 418 419 420 421 422 423 424 425 426 427 428 429 430 431 432 433 434 435 436 437 438 439 440 441 442 443 444 445 446 447 448 449 450 451 452 453 454 455 456 457 458 459 460 461 462 463 464 465 466 467 468 469 470 471 472 473 474 475 476 477 478 479 480 481 482 483 484 485 486 487 488 489 490 491 492 493 494 495 496 497 498 499 500 501 502 503 504 505 506 507 508 509 510 511 512 513 514 515 516 517 518 519 520 521 522 523 524 525 526 527 528 529 530 531 532 533 534 535 536 537 538 539 540 541 542 543 544 545 546 547 548 549 550 551 552 553 554 555 556 557 558 559 560 561 562 563 564 565 566 567 568 569 570 571 572 573 574 575 576 577 578 579 580 581 582 583 584 585 586 587 588 589 590 591 592 593 594 595 596 597 598 599 600 601 602 603 604 605 606 607 608 609 610 611 612 613 614 615 616 617 618 619 620 621 622 623 624 625 626 627 628 629 630 631 632 633 634 635 636 637 638 639 640 641 642 643 644 645 646 647 648 649 650 651 652 653 654 655 656 657 658 659 660 661 662 663 664 665 666 667 668 669 670 671 672 673 674 675 676 677 678 679 680 681 682 683 684 685 686 687 688 689 690 691 692 693 694 695 696 697 698 699 700 701 702 703 704 705 706 707 708 709 710 711 712 713 714 715 716 717 718 719 720 721 722 723 724 725 726 727 728 729 730 731 732 733 734 735 736 737 738 739 740 741 742 743 744 745 746 747 748 749 750 751 752 753 754 755 756 757 758 759 760 761 762 763 764 765 766 767 768 769 770 771 772 773 774 775 776 777 778 779 780 781 782 783 784 785 786 787 788 789 790 791 792 793 794 795 796 797 798 799 800 801 802 803 804 805 806 807 808 809 810 811 812 813 814 815 816 817 818 819 820 821 822 823 824 825 826 827 828 829 830 831 832 833 834 835 836 837 838 839 840 841 842 843 844 845 846 847 848 849 850 851 852 853 854 855 856 857 858 859 860 861 862 863 864 865 866 867 868 869 870 871 872 873 874 875 876 877 878 879 880 881 882 883 884 885 886 887
Bệnh phân trắng không làm tôm chết nhanh và chết hàng loạt như bệnh đốm trắng hay bệnh gan tụy cấp, nhưng nếu không khống chế sẽ gây ra những thiệt hại to lớn cho người nuôi tôm...
Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.