Nguồn tin: Nhân Dân, 04/01/2010
Ngày cập nhật:
6/1/2010
Năm 2002, toàn vùng biển Kiên Giang chỉ có một vài lồng bè nuôi cá trên biển theo phương thức rộng cá nhỏ vỗ béo. Thấy cá lớn nhanh, nguồn thức ăn tại chỗ dồi dào, lợi nhuận cao nên nhiều hộ đóng bè thả nuôi, dần lan rộng ra thành phong trào. Tuy nhiên, đây vẫn còn là một mô hình tự phát, người dân tự "bơi"... nên đã và đang xuất hiện những trở ngại. Tỉnh Kiên Giang đang xúc tiến quy hoạch lại vùng nuôi, kèm theo đó là những biện pháp, chính sách để nghề này phát triển bền vững.
Ðến "vương quốc" cá lồng bè
Từ Hòn Tre (huyện Kiên Hải) ngồi ba chặng tàu, mất hơn 6 giờ, chúng tôi mới đến được Hòn Ngang - một hòn đảo nằm trong quần đảo Nam Du. Hòn Ngang là trung tâm của xã đảo Nam Du, huyện đảo Kiên Hải (Kiên Giang) và xã Nam Du được mệnh danh là "vương quốc" cá lồng bè ở Kiên Giang. Trên chiếc tàu đò từ hòn Củ Tron (xã An Sơn, huyện Kiên Hải) sang Hòn Ngang, biết chúng tôi từ đất liền ra, một người dân địa phương khoe: "Cả vùng biển tây này không có nơi đâu phát triển nghề nuôi cá lồng bè bằng ở đây". Ông chỉ tay qua một đảo nói tiếp: "Chỉ tính riêng tại Hòn Mấu, ba năm qua thôi đã phát triển thêm hàng chục lồng bè nuôi cá. Rất nhiều hộ nhờ nuôi cá lồng bè mà trở nên giàu có, nhiều hộ trước đây lo cái ăn cái mặc hằng ngày giờ cũng đã có tích lũy".
Người dân kể lại, năm 2002, tại quần đảo Nam Du chỉ có hai hộ nuôi lồng theo phương thức rộng cá nhỏ vỗ béo. Người nuôi thấy cá lớn nhanh, không bệnh tật, nguồn thức ăn lại có sẵn, giá lại cao nên đã đóng thêm nhiều lồng bè để nuôi. Người dân trong vùng biết được, học hỏi rồi làm theo và dần dần lan rộng ra thành phong trào. Xã cũng đã vận động người nuôi cá thành lập Hợp tác xã dịch vụ và nuôi trồng thủy sản nhằm liên kết, hỗ trợ nhau trong quá trình chăn nuôi. Hiện nay, hợp tác xã đã ổn định tổ chức và đi vào hoạt động. Ông Ðinh Văn Trung - Chủ tịch Hội Nông dân xã Nam Du, Chủ nhiệm hợp tác xã cho biết: Từ chỗ chỉ có vài hộ nuôi với quy mô nhỏ, đến nay toàn xã đảo Nam Du đã có 112 hộ tham gia nuôi 222 lồng bè với tổng sản lượng ước trên 200 tấn cá, chủ yếu là cá bớp và cá mú. Với giá bán bình quân cá bớp 60.000 đồng/kg, cá mú sao 350.000 đồng/kg người nuôi đạt lợi nhuận từ hai đến ba lần số vốn sau 6-8 tháng nuôi. Lợi nhuận lớn nên đã giúp nhiều người nuôi cá ở Nam Du từ chỗ kinh tế trung bình khá trở nên giàu có như hộ Huỳnh Minh Bửu, Nguyễn Kim Thoa, Khương Thị Ngọc Giàu... Nhiều hộ từ chỗ làm ăn khó khăn cũng đã tiến dần lên chỗ có tích lũy như Võ Thị Mỹ Trang, Nguyễn Thiện Hải, Võ Thị Út... Cũng chính điều này, mà tốc độ tăng trưởng của làng nghề đã vượt khỏi tầm kiểm soát của địa phương. Năm 2008, theo dự kiến tổng sản lượng cá nuôi của xã Nam Du khoảng 50 tấn, nhưng thực tế lên đến trăm tấn.
Phó Chủ tịch UBND huyện Kiên Hải Trần Thị Hồng cho biết: Là một huyện đảo, với 23 đảo lớn nhỏ hợp thành, Kiên Hải là huyện có tiềm năng rất lớn về nuôi trồng thủy sản, đặc biệt là nuôi cá lồng bè. Tuy bước đầu, mô hình nuôi cá lồng bè chỉ là tự phát, nhưng cũng đã đạt được một số kết quả khả quan. Cũng vì hiệu quả kinh tế khá cao mà mô hình đã phát triển nhanh chóng. Nếu như năm 2007, toàn huyện chỉ có 77 hộ nuôi, 157 lồng, cá thương phẩm khoảng 60 tấn, thì đến năm 2008 có 101 hộ nuôi, 270 lồng, sản lượng 110 tấn và hiện nay toàn huyện có 141 hộ nuôi, 375 lồng, sản lượng trên 150 tấn cá thương phẩm.
Phát triển thiếu bền vững
Phong trào nuôi cá phát triển mạnh hơn sáu năm qua, nhưng tỉnh Kiên Giang vẫn chưa quy hoạch vùng nuôi, định hướng quy mô nuôi, con giống, vốn vay... vì vậy người nuôi cá tự "bơi" là chủ yếu và gần đây đã xuất hiện những trở ngại ảnh hưởng đến hoạt động nuôi cá lồng bè trên biển: Ðó là số lồng bè thủy sản tăng quá nhanh dẫn đến sự thiếu hụt về con giống thả nuôi. Vì hiện tại việc thực hiện sinh sản nhân tạo con giống tỉnh Kiên Giang chưa làm được; giá cá giống nhập khẩu lại quá cao nhưng tỷ lệ hao hụt lớn nên không khả quan, vì vậy nguồn cá giống chủ yếu vẫn là khai thác trong tự nhiên, nên người nuôi không chủ động được. Trong khi đó, nguồn vốn tích lũy trong dân quá ít, không đủ để chi phí đóng lồng bè, mua cá giống, thức ăn, vốn vay ngân hàng còn hạn chế và thời gian cho vay chưa phù hợp với đối tượng có chu kỳ sản xuất dài. Kỹ thuật nuôi, chăm sóc, quản lý sức khỏe cá nuôi của người dân còn hạn chế, dịch bệnh liên tiếp xảy ra, nhiều bệnh chưa có thuốc đặc trị. Ðặc biệt chất lượng nguồn nước suy giảm do chất thải sinh hoạt, sản xuất, còn thị trường tiêu thụ bấp bênh, giá cả không ổn định.
Theo quan sát của chúng tôi, hiện số lồng bè nuôi cá nằm xen lẫn với tàu đánh cá, tàu chở khách, tàu tải... neo đậu để ăn uống, sửa chữa máy móc... với hàng trăm lối xả rác, dầu, nhớt cặn xuống biển khiến môi trường nước bị ô nhiễm. Ðây cũng là nguyên nhân khiến tình hình dịch bệnh trên đàn cá nuôi gia tăng. "Năm 2003, cá nuôi gần như không có bệnh, nhưng đến năm 2005 bệnh trên cá bắt đầu xảy ra. Ðặc biệt, gần đây ngoài bệnh ghẻ lở còn có thêm bệnh sán lá, đỉa trên cá" - ông Ðinh Văn Trung nói. Ðồng chí Trần Thị Hồng, xác nhận: Do cá sinh sản nhân tạo hiếm, chất lượng chưa cao nên nguồn giống cá mú, cá bớp ở Kiên Hải chủ yếu khai thác từ tự nhiên. Vì thế đã xuất hiện tình trạng tranh mua, đẩy giá cá bớp từ 5.000 đ/con năm 2003 lên 60.000 đến 80.000 đ/con năm 2009. Tương tự, cá mú sao từ 25 - 30 nghìn đồng/con đươc đẩy lên 100 - 150 nghìn đồng/con giống. Bên cạnh đó, ngân hàng lại giải ngân không đúng thời vụ mua cá giống, mà chỉ giải ngân theo định kỳ nên phần lớn người nuôi phải vay bên ngoài với lãi suất rất cao. Và do chưa tổ chức được khâu tiêu thụ sản phẩm nên để cá được đến tay người tiêu dùng phải lệ thuộc vào nhiều tầng nấc tư thương, "cò" và mỗi tầng nấc như vây không chỉ đơn thuần là sự chia sẻ lợi nhuận mà còn là sự chèn ép, bóc lột người chăn nuôi.
Quy hoạch lại vùng nuôi
Mặc dù còn nhiều khó khăn, nhưng Kiên Giang vẫn xác định nghề nuôi cá lồng bè trên biển của tỉnh đã đi đúng hướng. Với gần 900 lồng nuôi hiện tại, dự kiến đến năm 2010, toàn tỉnh Kiên Giang sẽ có 950 lồng nuôi và đến năm 2015 số lồng nuôi sẽ tăng hơn 1.500 lồng với sản lượng 2.000 tấn. Trong định hướng xây dựng vùng nuôi thủy sản gắn với thị trường tiêu thụ sản phẩm, tỉnh Kiên Giang sẽ quy hoạch năm vùng nuôi. Trong đó, vùng nuôi cá lồng bè sẽ tập trung ở các đảo của huyện Kiên Hải, Phú Quốc, Kiên Lương và Hà Tiên. Tuy nhiên để cá phát triển tốt, địa điểm nuôi phải kín gió, nơi có độ sâu tối thiểu từ 5 - 6 m, nguồn nước có dòng chảy nhẹ, độ mặn từ 18 - 32%o, nguồn nước không bị ô nhiễm, thuận tiện cho việc vận chuyển vật tư, tiêu thụ sản phẩm. Mỗi hộ nuôi nên xây dựng từ 3 - 4 lồng để chủ động phân cỡ cá theo nhóm nuôi riêng; lồng phải có khả năng chịu được sóng gió cấp 5, 6. Bên cạnh đó cần tuân thủ nghiêm ngặt về nguồn thức ăn, cách quản lý chăm sóc...
Hiện tại Kiên Giang đã quy hoạch và công bố chi tiết nguồn lợi thủy sản trên biển, đảo; xác định vùng nuôi, đối tượng nuôi, loại hình nuôi cho từng khu vực. Phó Chủ tịch UBND tỉnh Kiên Giang Lâm Hoàng Sa, cho biết: Tới đây, tỉnh sẽ tiến hành giao mặt nước cho các tổ chức, cá nhân sử dụng theo hình thức quản lý cộng đồng. Ðẩy mạnh nhận chuyển giao công nghệ mới trong lĩnh vực sản xuất giống, kỹ thuật nuôi, phòng trị bệnh. Hạn chế việc khai thác cá giống trong tự nhiên, tích cực kêu gọi các tổ chức cá nhân đầu tư xây dựng trại sản xuất giống cá mú sao, cá bớp và một số loại giống khác phục vụ nghề nuôi trồng thủy sản tại địa phương. Bên cạnh đó, tỉnh Kiên Giang sẽ đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại, tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm; ban hành các chính sách ưu đãi dối với các tổ chức, cá nhân tham gia đầu tư trên lĩnh vực nuôi thủy sản biển đảo...
VIỆT TIẾN
- Kỹ thuật nuôi tôm, nuôi cá, phòng trị bệnh tôm, cá và các loại thủy sản khác
Các tin mới
Các tin năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009 | 2008 | 2007: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 61 62 63 64 65 66 67 68 69 70 71 72 73 74 75 76 77 78 79 80 81 82 83 84 85 86 87 88 89 90 91 92 93 94 95 96 97 98 99 100 101 102 103 104 105 106 107 108 109 110 111 112 113 114 115 116 117 118 119 120 121 122 123 124 125 126 127 128 129 130 131 132 133 134 135 136 137 138 139 140 141 142 143 144 145 146 147 148 149 150 151 152 153 154 155 156 157 158 159 160 161 162 163 164 165 166 167 168 169 170 171 172 173 174 175 176 177 178 179 180 181 182 183 184 185 186 187 188 189 190 191 192 193 194 195 196 197 198 199 200 201 202 203 204 205 206 207 208 209 210 211 212 213 214 215 216 217 218 219 220 221 222 223 224 225 226 227 228 229 230 231 232 233 234 235 236 237 238 239 240 241 242 243 244 245 246 247 248 249 250 251 252 253 254 255 256 257 258 259 260 261 262 263 264 265 266 267 268 269 270 271 272 273 274 275 276 277 278 279 280 281 282 283 284 285 286 287 288 289 290 291 292 293 294 295 296 297 298 299 300 301 302 303 304 305 306 307 308 309 310 311 312 313 314 315 316 317 318 319 320 321 322 323 324 325 326 327 328 329 330 331 332 333 334 335 336 337 338 339 340 341 342 343 344 345 346 347 348 349 350 351 352 353 354 355 356 357 358 359 360 361 362 363 364 365 366 367 368 369 370 371 372 373 374 375 376 377 378 379 380 381 382 383 384 385 386 387 388 389 390 391 392 393 394 395 396 397 398 399 400 401 402 403 404 405 406 407 408 409 410 411 412 413 414 415 416 417 418 419 420 421 422 423 424 425 426 427 428 429 430 431 432 433 434 435 436 437 438 439 440 441 442 443 444 445 446 447 448 449 450 451 452 453 454 455 456 457 458 459 460 461 462 463 464 465 466 467 468 469 470 471 472 473 474 475 476 477 478 479 480 481 482 483 484 485 486 487 488 489 490 491 492 493 494 495 496 497 498 499 500 501 502 503 504 505 506 507 508 509 510 511 512 513 514 515 516 517 518 519 520 521 522 523 524 525 526 527 528 529 530 531 532 533 534 535 536 537 538 539 540 541 542 543 544 545 546 547 548 549 550 551 552 553 554 555 556 557 558 559 560 561 562 563 564 565 566 567 568 569 570 571 572 573 574 575 576 577 578 579 580 581 582 583 584 585 586 587 588 589 590 591 592 593 594 595 596 597 598 599 600 601 602 603 604 605 606 607 608 609 610 611 612 613 614 615 616 617 618 619 620 621 622 623 624 625 626 627 628 629 630 631 632 633 634 635 636 637 638 639 640 641 642 643 644 645 646 647 648 649 650 651 652 653 654 655 656 657 658 659 660 661 662 663 664 665 666 667 668 669 670 671 672 673 674 675 676 677 678 679 680 681 682 683 684 685 686 687 688 689 690 691 692 693 694 695 696 697 698 699 700 701 702 703 704 705 706 707 708 709 710 711 712 713 714 715 716 717 718 719 720 721 722 723 724 725 726 727 728 729 730 731 732 733 734 735 736 737 738 739 740 741 742 743 744 745 746 747 748 749 750 751 752 753 754 755 756 757 758 759 760 761 762 763 764 765 766 767 768 769 770 771 772 773 774 775 776 777 778 779 780 781 782 783 784 785 786 787 788 789 790 791 792 793 794 795 796 797 798 799 800 801 802 803 804 805 806 807 808 809 810 811 812 813 814 815 816 817 818 819 820 821 822 823 824 825 826 827 828 829 830 831 832 833 834 835 836 837 838 839 840 841 842 843 844 845 846 847 848 849 850 851 852 853 854 855 856 857 858 859 860 861 862 863 864 865 866 867 868 869 870 871 872 873 874 875 876 877 878 879 880 881 882 883 884 885 886 887
Bệnh phân trắng không làm tôm chết nhanh và chết hàng loạt như bệnh đốm trắng hay bệnh gan tụy cấp, nhưng nếu không khống chế sẽ gây ra những thiệt hại to lớn cho người nuôi tôm...
Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.