Nguồn tin: Sài Gòn Giải Phóng, 18/04/2009
Ngày cập nhật:
20/4/2009
Tháng 4-2009, khi 30%-50% nông dân nuôi cá tra ĐBSCL “treo hầm” vì giá cá tra trượt dài trong khi vài năm trước người ta đua nhau nuôi. Diện tích mía năm rồi ở ĐBSCL chỉ khoảng 65.000ha. Giờ cuối vụ mía, khi giá vượt ngưỡng 700đ/kg, nông dân trong vùng đang đua nhau quay lại trồng mía… Sản xuất nông sản là thế mạnh của ĐBSCL nhưng đầu ra vẫn còn trong cảnh: May nhờ, rủi chịu!
Nông dân phải “cầu cạnh” doanh nghiệp!
“Lúa tồn đọng không ai mua” là nỗi ám ảnh của không ít nông dân ĐBSCL. Cao điểm là năm ngoái, hàng trăm ngàn tấn lúa hè thu tồn đọng, bị ẩm mốc chất đầy nhà. Theo các nhà khoa học, quy trình sản xuất và tiêu thụ lúa gạo ở ĐBSCL hiện nay đang đi theo “đường vòng”.
Nông dân sản xuất lúa bán cho thương lái, thương lái mua gom về bán cho vựa, vựa bán lại cho nhà máy, nhà máy tổ chức xay xát, đánh bóng gạo bán cho doanh nghiệp xuất khẩu. Do khâu tiêu thụ sản phẩm phải qua nhiều tầng nấc như trên nên nông dân phải “chi trả” cho các khâu trung gian khá nhiều.
Chưa kể, khi một trong các khâu trung gian nói trên gặp “sự cố”, nông dân sẽ không bán được sản phẩm. Đặc biệt, khi xuất khẩu gặp khó khăn, nông dân phải “ôm” thêm khâu tồn trữ và bảo quản lúa dù trong tay họ không hề có kho bãi và công nghệ.
Không chỉ lúa gạo, cuối năm ngoái, hàng trăm ngàn tấn cá tra tồn trong ao khiến nông dân phải xếp hàng “cầu cạnh” doanh nghiệp mua. Chính phủ phải tổ chức nhiều cuộc họp trực tuyến với lãnh đạo các tỉnh, thành ĐBSCL để chỉ đạo tháo gỡ khó khăn cho nông dân. Nhiều nông dân nuôi cá tra đang lâm vào cảnh nợ nần vì phải bán cá dưới giá thành.
Theo Bộ NN-PTNT, năm 2008 giá thức ăn thủy sản tăng khoảng 30% so với năm 2007 làm cho giá thành nuôi cá tra tăng lên 40%. Trong khi diện tích và sản lượng cá tra ở ĐBSCL trong 2008 tăng gấp đôi so với năm 2007 nhưng thị trường xuất khẩu tăng chưa đến 50% do tình hình kinh tế thế giới suy giảm.
Hợp đồng thì... mặc hợp đồng
Sau gần 7 năm thực hiện, Quyết định 80/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về chính sách khuyến khích tiêu thụ nông sản gắn với chế biến… đã được nhiều doanh nghiệp và nông dân tham gia.
Thông qua hợp đồng bao tiêu (HĐBT) nông sản, bước đầu đã gắn trách nhiệm doanh nghiệp với người sản xuất; nông dân có điều kiện tiếp nhận hỗ trợ về đầu tư, các biện pháp kỹ thuật, giá cả hợp lý...
Tuy nhiên, quá trình triển khai thực hiện vẫn còn những hạn chế, tồn tại. Doanh nghiệp và nông dân chưa thực sự gắn bó và thực hiện đúng HĐBT ký kết. Tỷ lệ hàng hóa nông sản tiêu thụ qua HĐBT rất thấp (lúa hàng hóa chỉ khoảng 6%-9%, thủy sản dưới 10%).
Tình trạng tranh mua, tranh bán vẫn xảy ra khi đã có hợp đồng trong khi việc xử lý vi phạm hợp đồng không kịp thời và chưa triệt để. Thực tế triển khai HĐBT vừa qua cho thấy không ít tồn tại. Doanh nghiệp than phiền rằng khi giá nông sản cao, nông dân luôn “phá hợp đồng” - không bán theo như đã ký kết.
Còn nông dân thì bức xúc, cho rằng khi nông sản rớt giá, doanh nghiệp thường đưa ra nhiều “chi tiết” để “kéo” giá xuống. Ví dụ đối với lúa gạo là độ ẩm; với cá tra, cá ba sa là màu cá… Không ít nông dân “ấm ức” khi hàng hóa ứ đọng mà chẳng ai dám kiện “ông doanh nghiệp” cả!
Tiến sĩ Lê Văn Bảnh, Viện trưởng Viện Lúa ĐBSCL cho rằng, nông dân ĐBSCL đủ khả năng sản xuất đạt năng suất trên 10 tấn lúa/ha/năm. Tuy nhiên, nông dân chưa được trang bị trình độ về hội nhập kinh tế thế giới, thiếu thông tin thị trường và năng lực thương mại.
Do đó, nhiều nông hộ sản xuất theo phong trào dẫn đến tình trạng trúng mùa, rớt giá - thất mùa, được giá. Mặt khác, trong chuỗi sản xuất và tiêu thụ nông sản, mối liên kết giữa 4 nhà chưa chặt, nhất là quan hệ giữa doanh nghiệp và nông dân chưa bền vững.
Một tính toán mới đây của Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) cũng cho thấy, giá thành sản xuất tôm của Việt Nam cao hơn một số nước khoảng 15%-20%. Một trong những nguyên nhân giá thành cao có yếu tố “quy mô”. Ở Việt Nam, quy mô sản xuất mỗi hộ trung bình chỉ từ 1 - 3ha ao nuôi tôm. Số hộ có ao nuôi lớn từ 40-100ha chỉ... đếm trên đầu ngón tay.
Ngược lại, ở các nước lân cận, các hộ nuôi tôm sở hữu hàng trăm, hàng ngàn héc-ta nên chi phí sẽ thấp đi. Từ thực trạng trên, tiến sĩ Lê Văn Bảnh cho rằng chính sách hạn điền như hiện nay không còn phù hợp. Đã đến lúc cần điều chỉnh cho phù hợp với thực tế sản xuất.
Trước mắt, nông dân nên tham gia các mô hình hợp tác để mở rộng quy mô sản xuất, tạo điều kiện ký kết hợp đồng vay vốn, mua vật tư trả chậm hoặc HĐBT sản phẩm.
* Chỉ thị số 25 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường chỉ đạo tiêu thụ nông sản thông qua hợp đồng nêu rõ: “Hướng dẫn việc dồn điền đổi thửa, phát triển các HTX, tổ hợp tác tham gia tiêu thụ nông sản thông qua hợp đồng. Rà soát, bổ sung, điều chỉnh hoặc xây dựng mới quy hoạch các vùng sản xuất hàng hóa tập trung gắn với công nghiệp chế biến và tiêu thụ nông sản; hướng dẫn, hỗ trợ phát triển các HTX, tổ hợp tác trong nông nghiệp, liên kết hộ sản xuất với trang trại, doanh nghiệp. Xây dựng chính sách khuyến khích và tạo điều kiện phát triển các mô hình hợp tác giữa hộ sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản với các cơ sở chế biến, tiêu thụ; phát triển các tổ chức liên kết cộng đồng những người sản xuất trong ngành hàng”.
Chỉ thị số 25 của Thủ tướng Chính phủ cũng yêu cầu: Hướng dẫn các bên tham gia ký hợp đồng giải quyết tranh chấp phát sinh trong quá trình thực hiện; kịp thời xử lý các hành vi vi phạm hợp đồng tiêu thụ nông sản theo đúng pháp luật. Đây là cơ sở để các địa phương triển khai, thực hiện và mở rộng ký kết HĐBT nông dân, từng bước ổn định đầu ra cho nông sản ĐBSCL.
Cao Phong - Nhật Chánh
- Kỹ thuật chăn nuôi gia súc, gia cầm và các loại đặc sản
- Kỹ thuật trồng trọt cây ăn trái, rau màu và các loại cây lương thực, cây công nghiệp khác
Các tin mới:
Các tin cũ: năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009 | 2008 | 2007 | 2006:
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
38
39
40
41
42
43
44
45
46
47
48
49
50
51
52
53
54
55
56
57
58
59
60
61
62
63
64
65
66
67
68
69
70
71
72
73
74
75
76
77
78
79
80
81
82
83
84
85
86
87
88
89
90
91
92
93
94
95
96
97
98
99
100
101
102
103
104
105
106
107
108
109
110
111
112
113
114
115
116
117
118
119
120
121
122
123
124
125
126
127
128
129
130
131
132
133
134
135
136
137
138
139
140
141
142
143
144
145
146
147
148
149
150
151
152
153
154
155
156
157
158
159
160
161
162
163
164
165
166
167
168
169
170
171
172
173
174
175
176
177
178
179
180
181
182
183
184
185
186
187
188
189
190
191
192
193
194
195
196
197
198
199
200
201
202
203
204
205
206
207
208
209
210
211
212
213
214
215
216
217
218
219
220
221
222
223
224
225
226
227
228
229
230
231
232
233
234
235
236
237
238
239
240
241
242
243
244
245
246
247
248
249
250
251
252
253
254
255
256
257
258
259
260
261
262
263
264
265
266
267
268
269
270
271
272
273
274
275
276
277
278
279
280
281
282
283
284
285
286
287
288
289
290
291
292
293
294
295
296
297
298
299
300
301
302
303
304
305
306
307
308
309
310
311
312
313
314
315
316
317
318
319
320
321
322
323
324
325
326
327
328
329
330
331
332
333
334
335
336
337
338
339
340
341
342
343
344
345
346
347
348
349
350
351
352
353
354
355
356
357
358
359
360
361
362
363
364
Kỹ thuật chăn nuôi, trồng trọt, nuôi trồng và chế biến thủy hải sản
Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.