Nguồn tin: Nhân Dân, 21/04/2009
Ngày cập nhật:
22/4/2009
Ðối với người nông dân, không gì vui bằng khi sản phẩm của mình làm ra được tiêu thụ nhanh chóng và có uy tín trên thị trường. Chính điều đó góp phần khuyến khích họ sản xuất với quy mô ngày một lớn hơn, có tích lũy và làm giàu một cách chính đáng. Hơn thế, từ những mô hình làm kinh tế ấy đã từng bước đánh thức những vùng quê xa xôi và nghèo khó trên địa bàn Ðác Lắc, xuất hiện những nông dân chịu thương, chịu khó tìm con đường làm giàu trên mảnh đất của mình.
Con đường vào xã Chư Kpô, huyện Krông Búc, nay là thị xã Buôn Hồ (Ðác Lắc), hôm nay không còn lầy lội, gập ghềnh như trước, mà thay vào đó là đường cấp phối bằng phẳng, rộng thoáng, tiếng máy cày, xe máy reo vang từ quốc lộ đến tận trung tâm xã. Tiếp chúng tôi trong căn nhà mới khang trang, Y Bhấp kể: Người dân Chư Kpô trước đây nghèo lắm, chưa lâu đâu, mới hơn mười năm chứ mấy, cả xã không có căn nhà xây nào, đói nghèo, bệnh tật lại đeo đuổi triền miên. Như gia đình mình, vợ chồng lấy nhau năm 1980, lúc tách hộ dường như hai bàn tay trắng, khai hoang trồng được hai ha cà-phê nhưng chẳng năm nào thu nổi ba tấn, nghe báo, đài nói nhiều người làm giàu từ đất, từ làng quê, cớ sao gia đình mình không làm được? Thế là mạnh dạn tìm đến cán bộ để hỏi, để học tập cách trồng và chăm sóc các loại cây. Nhiều đêm trăn trở, suy nghĩ và được sự giúp đỡ của chính quyền địa phương cho vay vốn, mình thực hiện đầu tư thâm canh, chăm sóc đúng quy trình mà cán bộ khuyến nông truyền đạt, cái chính là cần cù, chịu khó. Những nơi không có nước tưới, mình phá cà-phê để trồng các loại cây ăn trái, tiêu... Và đất không phụ lòng vợ chồng mình, cũng trên vùng đất ấy, nay mỗi năm gia đình mình thu trên dưới trăm triệu đồng.
Thoáng nhìn cơ ngơi của nhiều gia đình trong xã, phần nào nói lên sức vươn lên của một xã nghèo, một xã đã và đang định hình về sản xuất, về tổ chức đời sống mới ở buôn làng. Còn ở xã Ea Siên cũng thuộc huyện Krông Búc, nông dân kháo nhau về việc phá bỏ thế độc canh chuyển sang trồng nhiều loại cây có hiệu quả trên từng vùng đất, vươn lên làm giàu. Y Sích, ở buôn Lung, kể: Gia đình có mấy ha đất, theo phong trào, mấy năm trước mình trồng cà-phê nhưng không có nước, cà-phê ít cho trái, bỏ ra nhiều công nhưng thu không bao nhiêu, gia đình mạnh dạn phá bỏ cà-phê, trồng các loại cây có hiệu quả kinh tế hơn.
- Thế tự gia đình mình nghĩ ra à? Tôi hỏi.
- Không đâu, mình nghe cán bộ khuyến nông hướng dẫn chứ, rồi tìm sách báo để đọc, để học, chỗ nào chưa hiểu thì tìm cán bộ hỏi cho kỹ rồi mới trồng.
- Gia đình mình trồng cây gì?
- Nơi nào cà-phê già cỗi, mình phá bỏ để trồng ngô lai vụ 2, trồng cây ngắn ngày, mà trồng cây gì cũng chọn giống, thâm canh. Như ba sào lúa nước trước đây chưa năm nào thu nổi một tấn, nay thâm canh, canh tác đúng thời vụ, có bón phân, chăm sóc đúng quy trình nên năng suất đạt ba tấn. Thật ra, cái chính là dám nghĩ, dám làm, mà phải làm đúng thì mới có hiệu quả. Mình tính cho nghe nhé: Vụ rồi thu 12 tấn cà-phê, hơn 10 tấn lúa, 10 tấn ngô lai,... tính sơ bộ, trừ chi phí, gia đình có hơn một trăm triệu đồng.
Hơn một trăm hộ đồng bào Ê Ðê ở buôn Trưng, xã Cư Bông (huyện Ea Ca) định cư được hơn 10 năm và cũng từ ngày ấy, đồng bào buôn Trưng mới "mở mày mở mặt". Buôn nằm cạnh công trình thủy lợi nên có điều kiện cải tạo đất và mở rộng ruộng nước hai vụ. Nói về chuyện làm ăn, Trưởng buôn Y Ghông kể: Cũng như nhiều buôn, làng khác ở vùng này, xưa bà con buôn Trưng nghèo lắm, nhưng từ khi thực hiện chủ trương định canh, định cư, được Nhà nước đầu tư làm ruộng nước, năng suất lúa tăng gấp 3, 4 lần so với trước. Lúa nước luôn đạt 7 đến 8 tấn/ha. Có ruộng, chủ động cái ăn, bà con tiếp tục khai phá đất để trồng cà-phê, rồi nhận khoán chăm sóc, bảo vệ rừng cho Lâm trường Ea Ca. Thông qua những khu rừng nhận khoán bà con kết hợp phát triển chăn nuôi, nay toàn buôn nuôi hơn 100 con trâu bò. Từ cách nghĩ, cách làm đó, đồng bào buôn Trưng hôm nay có nhiều hộ giàu, 93% số hộ trong buôn có điện lưới quốc gia, tối đến cả thanh niên, người già quây quần bên chiếc đài, bên máy thu hình và "rôm rả" nói chuyện làm giàu. Mọi người trao đổi kinh nghiệm sản xuất để rút ra phương cách có hiệu quả nhất.
Việc tích lũy đất đai, suy nghĩ và tìm kiếm một mô hình sản xuất thích hợp dựa trên cơ sở, điều kiện tự nhiên cũng như năng lực tài chính đã khiến lão nông Lê Văn Mười trở nên nổi tiếng khắp cả vùng Buôn Triết, huyện Lắc (tỉnh Ðác Lắc) hiện nay. Theo Phó Bí thư Ðảng ủy xã Buôn Triết Trần Văn Minh, ông Mười nổi tiếng không chỉ vì có sở hữu ruộng lúa nhiều nhất ở vựa lúa nổi tiếng này, mà hơn thế, chính ông là người giúp hàng trăm hộ nông dân trong vùng thâm canh cây lúa ngày càng bền vững và có tính chất sản xuất hàng hóa hơn. Chỉ tính riêng công đoạn làm đất, gieo sạ và các dịch vụ chăm sóc, thu hoạch lúa do gia đình lão nông này tự bỏ kinh phí đầu tư, cũng đã mang lại nhiều lợi ích kinh tế thiết thực cho hàng trăm nông dân ở địa phương. Thí dụ như không có ông Mười liên kết hợp đồng với một số đại lý nơi khác về thu mua lúa mỗi vụ, thì dân làm lúa ở đây sẽ bị thương lái ép giá và gây khó khăn rất nhiều (phải thiệt vài trăm nghìn đồng một tấn). Mà tính ra cả vựa lúa này mỗi năm cho sản lượng từ 12 nghìn đến 13 nghìn tấn thì số tiền mà người nông dân bị tư thương ép giá không phải là ít, phải lên tới con số cả trăm triệu đồng. Từ việc bán lúa, đến chuyện mua vật tư nông nghiệp của hầu hết dân làm lúa Buôn Triết đều được ông Mười "đỡ đầu", khỏi phải chạy vạy, tốn kém chi phí không cần thiết. Ông Mười cho rằng, mỗi năm thu về hàng trăm tấn lúa, nếu không tính toán "đầu ra, đầu vào" sao cho hợp lý, khoa học để tiết kiệm công sức, tiền bạc thì khó mà khá giả lên được! Không nói đến chuyện cày bừa, chăm sóc, thu hoạch... chỉ tính chuyện kho bãi để bảo quản lúa mỗi vụ cả trăm tấn, ông áp dụng phương thức mua bán hết sức chuyên nghiệp. Ðó là, ông đứng ra ký kết lâu dài với các đại lý trong vùng, cứ mùa về họ đến chở lúa của ông và bà con đi, sau đó tùy vào giá cả của thị trường để ông ra giá vào những thời điểm thích hợp. Ông cho biết, nhờ vậy, vụ lúa đông xuân vừa rồi, nhiều địa phương khác, nông dân lỗ vì giá hạ (có nơi chỉ còn 4.200-4.500 đồng/kg), nhưng riêng ông và nhiều nông hộ khác trong xã vẫn lời, bởi đầu vụ đã chốt với các đại lý thu mua giá 5.700 đồng/kg. Anh Lê Văn Máy, ở Buôn Tung, xã Buôn Triết (huyện Lắc), nói: Cả vựa lúa gần 12.000 ha này, ông Lê Văn Mười được coi là người đứng đầu. Mọi hoạt động sản xuất của gia đình ông đã khiến cho cả vùng phát triển theo hướng hàng hóa bền vững hơn, nhờ sự liên kết, tổ chức sản xuất theo mô hình kinh tế trang trại. Theo anh Máy và nhiều hộ trồng lúa ở đây, nếu cùng nhau hợp tác tích lũy đất đai để hình thành nên mô hình sản xuất có quy mô và khoa học như gia đình ông Lê Văn Mười thì người dân ở vựa lúa này sẽ có một đời sống khá giả, sung túc hơn.
Anh Hoàng Văn Tá, ở buôn Ky, phường Thành Nhất, thành phố Buôn Ma Thuột (Ðác Lắc) lựa chọn mô hình nuôi lợn rừng lai không phải xuất phát từ phong trào mà anh có một sự nghiên cứu, tìm tòi khoa học trước đó. Ðầu năm 2007, anh bắt tay vào xây dựng trang trại nuôi lợn rừng lai với diện tích một ha. Mới đầu, anh tìm mua con giống và nuôi thử nghiệm 12 con, mặc dù nắm khá vững về kỹ thuật cũng như kiến thức về giống lợn mới này, nhưng anh cũng gặp không ít thất bại. Vào mùa mưa, nhiều lợn con chết vì lạnh, thêm vào đó do nguồn giống ban đầu còn ít, cho nên anh đã tận dụng con giống, vì thế gây nên hiện tượng đồng huyết, khiến đàn lợn không phát triển được. Lần thất bại ấy làm anh một phen lao đao, nhưng nhờ đó anh rút ra được những kinh nghiệm quý báu. Anh bắt đầu gia cố lại chuồng trại, vào mùa mưa độn thêm rơm rạ để giữ ấm cho đàn lợn con. Về nguồn giống, anh chuẩn bị kỹ ngay từ đầu, có tiền đến đâu thì đầu tư con giống đến đó, chứ không tận dụng con giống như trước. Ðến bây giờ, trang trại của anh đã có 200 con lợn các loại, trong đó có 30 con lợn nái dùng để phối giống với lợn rừng thuần chủng, 25 con nái đẻ, hai con lợn rừng đực thuần chủng, còn lại là lợn thịt và lợn con giống có đời lai từ F1 đến F4. Ðể kiểm soát tốt con giống, anh phân loại và quản lý theo từng khu vực để khỏi lẫn lộn trong quá trình lai tạo. Theo anh Tá, nuôi lợn rừng lai dễ mà khó, dễ vì về đặc điểm sinh lý của nó gần với lợn nhà, thậm chí về thức ăn và khả năng sinh sản còn dễ hơn lợn nhà, ít cần sự can thiệp của con người. Còn khó ở chỗ, người chăn nuôi dễ bị nhầm lẫn giữa thức ăn tự nhiên và đặc tính sống hoang dã của chúng, nên chỉ cho đàn lợn ăn thức ăn tự nhiên mà quên chú ý đến chế độ dinh dưỡng để tăng trọng. Hoặc có người áp dụng phương thức chăn nuôi truyền thống (dùng thức ăn công nghiệp, nuôi nhốt) mà không chú ý việc tạo khoảng không gian cho chúng vận động, đồng thời cũng không chú trọng đến công tác phòng bệnh, vì nghĩ rằng lợn rừng có khả năng kháng bệnh tốt... So với các mô hình chăn nuôi lợn truyền thống thì nuôi lợn rừng lai cho hiệu quả kinh tế cao hơn hẳn. Hiện nay, mỗi cặp lợn giống F1 trên thị trường có giá khoảng 5 triệu đồng. Nếu đời lai cao hơn thì giá bán cũng cao hơn, còn lợn thịt có giá cao gấp ba lần giá lợn thịt bình thường. Ðây có thể xem là mô hình xóa nghèo hiệu quả cho người nông dân trên địa bàn Ðác Lắc.
Những vùng khó khăn chúng tôi đi qua, tìm hiểu và nghe nông dân kể chuyện vượt khó vươn lên làm giàu đã đọng lại trong tôi biết bao trăn trở, nghĩ suy. Họ cũng như bao nông dân nghèo khác, song cái chính là họ biết suy tính, chịu khó một nắng hai sương, gắn bó với ruộng vườn. Hầu hết những câu chuyện làm giàu đều xuất phát từ tính kiên trì, mạnh dạn phá bỏ nếp nghĩ cũ, chọn phương thức canh tác mới và biết tích lũy, thể hiện tinh thần cộng đồng, vì xóm làng, vì quê hương, vì vùng đất mình đang sống. Nét chung đó đã giúp cho nhiều nông dân Ðác Lắc thoát nghèo, đang phấn đấu làm giàu ngay trên chính mảnh đất của mình.
Nguyễn Hồng
- Kỹ thuật chăn nuôi gia súc, gia cầm và các loại đặc sản
- Kỹ thuật trồng trọt cây ăn trái, rau màu và các loại cây lương thực, cây công nghiệp khác
Các tin mới:
Các tin cũ: năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009 | 2008 | 2007 | 2006:
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
38
39
40
41
42
43
44
45
46
47
48
49
50
51
52
53
54
55
56
57
58
59
60
61
62
63
64
65
66
67
68
69
70
71
72
73
74
75
76
77
78
79
80
81
82
83
84
85
86
87
88
89
90
91
92
93
94
95
96
97
98
99
100
101
102
103
104
105
106
107
108
109
110
111
112
113
114
115
116
117
118
119
120
121
122
123
124
125
126
127
128
129
130
131
132
133
134
135
136
137
138
139
140
141
142
143
144
145
146
147
148
149
150
151
152
153
154
155
156
157
158
159
160
161
162
163
164
165
166
167
168
169
170
171
172
173
174
175
176
177
178
179
180
181
182
183
184
185
186
187
188
189
190
191
192
193
194
195
196
197
198
199
200
201
202
203
204
205
206
207
208
209
210
211
212
213
214
215
216
217
218
219
220
221
222
223
224
225
226
227
228
229
230
231
232
233
234
235
236
237
238
239
240
241
242
243
244
245
246
247
248
249
250
251
252
253
254
255
256
257
258
259
260
261
262
263
264
265
266
267
268
269
270
271
272
273
274
275
276
277
278
279
280
281
282
283
284
285
286
287
288
289
290
291
292
293
294
295
296
297
298
299
300
301
302
303
304
305
306
307
308
309
310
311
312
313
314
315
316
317
318
319
320
321
322
323
324
325
326
327
328
329
330
331
332
333
334
335
336
337
338
339
340
341
342
343
344
345
346
347
348
349
350
351
352
353
354
355
356
357
358
359
360
361
362
363
364
Kỹ thuật chăn nuôi, trồng trọt, nuôi trồng và chế biến thủy hải sản
Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.