Nguồn tin: Sài Gòn giải phóng, 26/06/2009
Ngày cập nhật:
28/6/2009
Tích tụ ruộng đất dù thừa nhận hay không thừa nhận vẫn đang “âm ỉ” diễn ra ở ĐBSCL. Có thể nói những người tích tụ ruộng đất thường siêng năng, tính toán giỏi, tổ chức áp dụng khoa học kỹ thuật tiến bộ để làm giàu.
Đất... đẻ đất
Nổi lên trong danh sách “400 hộ tích tụ ruộng đất” của huyện Thoại Sơn - An Giang gắn liền với những “vết cày nặng nhọc” của anh Hai Ù (Nguyễn Hữu Đức, ấp Phú Hữu, xã Định Mỹ). Hơn 20 năm trước, Hai Đức 24 tuổi, đi làm mướn dành dụm được 2,5 chỉ vàng để mua 4 con bò dựng nghiệp. Lúc đầu, Hai Đức chỉ nghĩ: Mua bò để cày xới trên chính 5 công đất nhà do ông già cho. Nhưng thời thế Hai Đức cặm cụi đi cày thuê, ai mướn bao nhiêu anh cũng cày “cái rụp”.
Thấy anh làm nhanh, kèm theo tướng tá lực điền, dân trong xóm đặt cho biệt danh Hai Ù - đúng cả nghĩa đen (to con) lẫn nghĩa bóng (ù một cái làm xong). Người trong xã thấy Hai Ù dắt bò cày mướn từ mờ sáng đến sẩm tối mà thương. Cày xới dành dụm được bao nhiêu, Hai Ù đều mua đất. Anh mê đất đến độ, có người bán cho anh mấy công đất kèm theo hơn chục... gốc tre đầu bờ! Hai Ù hì hục đào xới một mình khiêng luôn mấy bụi tre về làm... củi đốt cả năm!
Cứ dần như thế, từ 5 công đất của ông già để lại, đến nay đất của Hai Ù “nở nồi” ra 140 công (14ha) với 6 mảnh nằm ở các xã khác nhau của huyện Thoại Sơn. Cái độc đáo của Hai Ù là tối ngày lui cui trên ruộng, lúc thì nhổ cỏ, lúc thì cấy dặm ở mấy khoảnh đất trống. Giờ Hai Ù có máy cày, máy suốt và gần chục máy bơm nước...
Con tôm sú ở ĐBSCL đang lao đao do dịch bệnh. Nhưng với Tám Sơn (Dương Thanh Sơn) – người ấp Phạm Kiệt xã Khánh Bình, huyện Trần Văn Thời (Cà Mau) vẫn sống khỏe. Một thời, Tám Sơn lang thang thuê đất rừng đước nuôi tôm tự nhiên ở Năm Căn.
Năm 2001, dành dụm được 2 chỉ vàng, vay mượn thêm một số, Tám Sơn mua lô đất trồng dừa nước ở Khánh Bình để khởi nghiệp bằng một đầm tôm 2.000m². Và 3 năm liên tiếp (2002 - 2004), Tám Sơn trúng đậm tôm sú. Với giá 110.000 đồng/kg (tôm 30 con/ ký), từng tấn tôm bán ra Tám Sơn “thu về” bằng 1, 2 rồi 3 đầm tôm.
Cứ thế, trong 3 năm liên tiếp, Tám Sơn đã tích tụ hơn 10 đầm tôm với diện tích 12ha (8ha mặt nước nuôi tôm). Đó cũng là lúc tên tuổi Tám Sơn nổi như “cồn” ở huyện Trần Văn Thời. Không chỉ ở xã, huyện mà lãnh đạo cấp tỉnh cũng chọn mô hình nuôi tôm sú của Tám Sơn làm điểm tham quan, trao đổi kinh nghiệm.
Quy mô nhỏ, khó áp dụng khoa học kỹ thuật
ĐBSCL hiện có 60% thửa ruộng quy mô từ 0,1 – 0,5ha nên khó áp dụng cơ giới hóa vào đồng ruộng. Theo ông Nguyễn Thành Công ở xã Phước Tân Hưng, huyện Châu Thành, tỉnh Long An, nông dân sản xuất 0,5ha lúa rất khó thuê được máy gặt đập liên hợp dù phải đăng ký trước 30 - 40 ngày, còn những hộ sản xuất 5 - 7ha lúa, dễ thuê máy thu hoạch lúa.
Các thửa ruộng dưới 1ha khó hưởng lợi dịch vụ cải tạo mặt bằng đồng ruộng bằng máy cày có gắn thiết bị định vị tia laser. “Tui nghĩ Nhà nước nên điều chỉnh mức hạn điền tối thiểu 3ha thay vì tối đa chỉ có 3ha như hiện nay” - ông Nguyễn Thành Công đề xuất.
Nước ta có khoảng 11 triệu hộ nông dân, giữ hơn 12,5 triệu hécta đất nông nghiệp (57,49% diện tích đất nông nghiệp cả nước). Song theo số liệu của Bộ NN-PTNT, hiện cả nước đang có tới 70 triệu thửa ruộng manh mún, bình quân mỗi hộ nông dân chỉ có 0,7 - 0,8ha đất canh tác.
Ruộng manh mún đã hạn chế việc áp dụng cơ giới hóa và ứng dụng khoa học kỹ thuật mới vào sản xuất. Nếu cứ để ruộng đất manh mún như hiện nay thì không có sản xuất hàng hóa, mà không có vùng sản xuất hàng hóa thì không có tiêu thụ theo hợp đồng
Nhận diện để tìm giải pháp
Theo số liệu của Viện KHXH vùng Nam bộ, những năm gần đây, khi sản xuất lúa hàng hóa tăng mạnh, tích tụ ruộng đất tăng nhanh. Năm 1994, toàn vùng ĐBSCL có 3,65% số hộ có từ 3 - 5ha và 0,7% số hộ có trên 5ha; năm 1998 tỷ lệ này tăng tương ứng lên 30,32% và 12,65%. Hiện nay số tích tụ ruộng đất tăng mạnh hơn, nhất là vùng Đồng Tháp Mười, tứ giác Long Xuyên, bán đảo Cà Mau.
Nói đến tích tụ ruộng đất không thể bỏ qua vai trò của kinh tế trang trại hiện nay đang phát triển khá mạnh ở ĐBSCL. Trong đó, các tỉnh ven biển chiếm ưu thế về kinh tế trang trại. Nổi lên là Kiên Giang hơn 7.500 trang trại. Quy mô trung bình mỗi trang trại gần 5ha. Trong đó có 5.000 trang trại trồng trọt, hơn 2.200 trang trại nuôi trồng thủy sản.
Vùng tứ giác Long Xuyên chiếm tới trên 31% số trang trại toàn tỉnh và chiếm gần 50% trang trại nuôi trồng thủy sản. Một tính toán sơ bộ cho thấy, hiệu quả từ mô hình này cao hơn 1,5 lần so với kinh tế hộ. Đáng chú ý, các trang trại đã tạo việc làm ổn định cho khoảng 25.800 lao động thường xuyên với mức thu nhập từ 800.000 đồng - 1 triệu đồng/tháng.
Việc tăng nhanh dân số nông thôn, tích tụ đất sản xuất để đẩy nhanh quá trình công nghiệp quá nông nghiệp có thể dẫn tới phân hóa giàu nghèo ở nông thôn càng mạnh và xuất hiện tình trạng thất nghiệp ở đây. Tuy nhiên, không nên né tránh những điều này. Cách tốt nhất là đối mặt để tìm giải pháp như hiện nay chúng ta đang gặp phải và giải quyết ở các thành phố! Cần phải thừa nhận, mặt tích cực: sản xuất hiệu quả của người tích tụ ruộng đất. Nhưng nếu không sớm có giải pháp, chính sách “ứng xử” với những người tích tụ ruộng đất, tình trạng “phát canh, thu tô” sẽ ngày càng lan ra!
Thời gian qua, nông dân ĐBSCL thường chịu cảnh trúng mùa rớt giá hoặc không bán được sản phẩm. Nguyên nhân chính do mối liên kết 4 nhà trong sản xuất và tiêu thụ lúa gạo chưa chặt, nhất là liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp chưa bền vững. Nếu mỗi hộ 1ha đất, chỉ sản xuất được 10 tấn lúa hàng hóa/năm trong khi mỗi doanh nghiệp cần thu mua đến cả 100.000 tấn lúa/năm. Doanh nghiệp không thể ký hợp đồng, tổ chức thực hiện hợp đồng thu mua lúa trực tiếp của 10.000 nông hộ/năm nên đành mua lúa, gạo của thương lái.
C.PHONG – N.CHÁNH
- Kỹ thuật chăn nuôi gia súc, gia cầm và các loại đặc sản
- Kỹ thuật trồng trọt cây ăn trái, rau màu và các loại cây lương thực, cây công nghiệp khác
Các tin mới:
Các tin cũ: năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009 | 2008 | 2007 | 2006:
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
38
39
40
41
42
43
44
45
46
47
48
49
50
51
52
53
54
55
56
57
58
59
60
61
62
63
64
65
66
67
68
69
70
71
72
73
74
75
76
77
78
79
80
81
82
83
84
85
86
87
88
89
90
91
92
93
94
95
96
97
98
99
100
101
102
103
104
105
106
107
108
109
110
111
112
113
114
115
116
117
118
119
120
121
122
123
124
125
126
127
128
129
130
131
132
133
134
135
136
137
138
139
140
141
142
143
144
145
146
147
148
149
150
151
152
153
154
155
156
157
158
159
160
161
162
163
164
165
166
167
168
169
170
171
172
173
174
175
176
177
178
179
180
181
182
183
184
185
186
187
188
189
190
191
192
193
194
195
196
197
198
199
200
201
202
203
204
205
206
207
208
209
210
211
212
213
214
215
216
217
218
219
220
221
222
223
224
225
226
227
228
229
230
231
232
233
234
235
236
237
238
239
240
241
242
243
244
245
246
247
248
249
250
251
252
253
254
255
256
257
258
259
260
261
262
263
264
265
266
267
268
269
270
271
272
273
274
275
276
277
278
279
280
281
282
283
284
285
286
287
288
289
290
291
292
293
294
295
296
297
298
299
300
301
302
303
304
305
306
307
308
309
310
311
312
313
314
315
316
317
318
319
320
321
322
323
324
325
326
327
328
329
330
331
332
333
334
335
336
337
338
339
340
341
342
343
344
345
346
347
348
349
350
351
352
353
354
355
356
357
358
359
360
361
362
363
364
Kỹ thuật chăn nuôi, trồng trọt, nuôi trồng và chế biến thủy hải sản
Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.