Nguồn tin: Báo Hưng Yên, 10/08/2009
Ngày cập nhật:
11/8/2009
Phát triển kinh tế trang trại (KTTT) là chủ trương nhất quán và lâu dài của tỉnh Hưng Yên, nhất là từ khi có Quyết định số 46/2005/QĐ - UBND của UBND tỉnh Hưng Yên ban hành quy định tạm thời về chính sách khuyến khích phát triển KTTT, các trang trại trên địa bàn tăng nhanh, rộng khắp và đa dạng. Toàn tỉnh hiện có hơn 3.600 mô hình trang trại, trong đó có hơn 2.400 trang trại đạt tiêu chí liên Bộ NN - PTNT và Tổng cục Thống kê. Các trang trại đã khẳng định vai trò tích cực thúc đẩy quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn sang sản xuất hàng hoá, tập trung quy mô lớn, nâng cao đời sống nhân dân. Song, để KTTT tiếp tục phát triển mạnh hơn nữa, tương xứng với tiềm năng, vị trí trong nền kinh tế cần tăng cường nguồn vốn đầu tư, đặc biệt là tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho các chủ trang trại tiếp cận nguồn vốn tín dụng.
Hiện nay, KTTT trên địa bàn đang được tiếp nhận vốn đầu tư chủ yếu từ các nguồn như: ngân sách nhà nước, tín dụng thương mại và vốn tự có… Vốn ngân sách mỗi năm đầu tư hàng trăm triệu đồng cho các dự án khuyến nông như” “sind hoá” đàn bò, "nạc hoá" đàn lợn, chăn nuôi gia cầm an toàn sinh học, nuôi thả các rô phi đơn tính và được triển khai tới các trang trại ở nhiều địa phương trong tỉnh. Nguồn tín dụng thương mại được hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp - PTNT và hơn 50 quỹ tín dụng nhân dân cơ sở đáp ứng tới tận huyện, xã, thị trấn. Với vai trò chủ đạo, chủ lực đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng đầu tư sản xuất kinh doanh khu vực nông nghiệp, nông thôn, nhất là KTTT, Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT có mạng lưới phân bố rộng khắp tới huyện, xã và thôn với 11 chi nhánh, 16 phòng giao dịch ở các huyện, thành phố. Đến năm nay, dư nợ cho vay KTTT trên địa bàn của Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp - PTNT tỉnh đạt hơn 18,3 tỷ đồng với hơn 500 chủ trang trại còn dư nợ vốn vay, trong đó cho các trang trại trồng trọt vay hơn 8,4 tỷ đồng, các trang trại chăn nuôi vay hơn 9,9 tỷ đồng. Hiện nay tổng dư nợ cho vay của hệ thống quỹ tín dụng nhân dân cơ sở hơn 760 tỷ đồng, trong đó cho vay KTTT chiếm tỷ trọng ước khoảng 30%. Đáp ứng 40% nhu cầu vốn đầu tư KTTT, Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp - PTNT tỉnh và các quỹ tín dụng nhân dân cơ sở ngày càng khẳng định là một kênh quan trọng cung ứng vốn tín dụng cho KTTT. Xét về nguồn lực và mạng lưới hoạt động thì hiện nay các quỹ tín dụng, ngân hàng có tiềm năng dồi dào, mang nguồn vốn tín dụng thương mại phục vụ KTTT phát triển mạnh hơn nữa. Hiện nay tổng nguồn vốn của các ngân hàng, quỹ tín dụng trên địa bàn tỉnh đạt hơn 12 nghìn tỷ đồng, trong đó Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp - PTNT tỉnh gần 4,4 nghìn tỷ đồng, quỹ tín dụng nhân dân cơ sở gần 837 tỷ đồng. Nguồn vốn tín dụng thương mại đã góp phần quan trọng thúc đẩy kinh tế trang trại phát triển nhanh trong thời gian qua. Bên cạnh sự tăng nhanh về số lượng, chất lượng KTTT cũng được nâng cao rõ rệt. Với giá trị hàng hoá, dịch vụ hơn 482 tỷ đồng/năm, các trang trại trên địa bàn đạt tổng thu nhập hơn 122 tỷ đồng/năm. Các trang trại có doanh thu từ 200 - 500 triệu đồng/năm chiếm gần 20%, trên 500 triệu đồng/năm chiếm 4%. Nhiều trang trại đạt doanh thu trên 1 tỷ đồng/năm. Các hộ dân đang phát triển mạnh trang trại theo hướng kết hợp giữa chăn nuôi với trồng trọt, sản xuất với chế biến và gắn liền với chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp. Các trang trại đang tạo việc làm ổn định cho gần 10 nghìn lao động. Kinh tế trang trại phát triển đã đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp hiệu quả hơn, đồng thời định hướng cho hộ nông dân từ bỏ tư tưởng sản xuất tự cung, tự cấp, tiến tới sản xuất hàng hoá với quy mô lớn, gắn với thị trường tiêu thụ ổn định. Kinh tế trang trại không chỉ thúc đẩy việc khai thác có hiệu quả đất đai vào sản xuất, cải thiện môi trường sinh thái mà còn phát huy được lợi thế của từng địa phương, từng vùng sản xuất hàng hoá tập trung.
Trong các nguồn vốn chính cho KTTT, nguồn tín dụng thương mại có “thế mạnh” cần đến đâu có thể huy động đến đó và luôn được kiểm soát chặt chẽ để đầu tư hiệu quả. Nếu khơi thông được dòng vốn tín dụng từ các ngân hàng thì KTTT sẽ có thêm nguồn lực mạnh mẽ để phát triển. Tuy nhiên, do thị trường tín dụng nông nghiệp, nông thôn có đặc điểm rủi ro cao, chi phí cao, địa bàn rộng nên đang thiếu vắng các ngân hàng thương mại, nhất là các ngân hàng thương mại cổ phần. Địa bàn nông thôn gần như chỉ có ngân hàng Nông nghiệp - PTNT hoạt động. Trong khi đó tỷ trọng cho vay KTTT của Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp - PTNT tỉnh còn thấp, bằng 1% so với tổng dư nợ và gần 1,4% so với dư nợ cho vay nông nghiệp, nông thôn. Số trang trại vay vốn ngân hàng Nông nghiệp - PTNT thường không nhiều (khoảng 25% tổng số trang trại đạt tiêu chí trên địa bàn). Vốn vay của các trang trại phần lớn là ngắn hạn, chiếm tỷ lệ gần 70% dư nợ cho vay KTTT. Những “rào cản” khiến nhiều chủ trang trại than phiền khó vay vốn ngân hàng trước hết có nguyên nhân nội tại của KTTT. Sản xuất, kinh doanh của các trang trại hiệu quả chưa cao, rủi ro lớn khiến các ngân hàng chưa mặn mà đẩy mạnh hoạt động đầu tư tín dụng cho KTTT. Bên cạnh đó, những vướng mắc về tài sản thế chấp khi vay vốn của các trang trại vẫn chưa được tháo gỡ khiến các chủ trang trại luôn gặp khó khăn trong vay vốn ngân hàng và thường chỉ vay được vốn “nhỏ giọt”. Anh Hoàng Văn Khánh, chủ trang trại VAC ở xã Yên Phú (Yên Mỹ) phàn nàn: trang trại của tôi rộng 3,6 mẫu, được xây dựng theo chủ trương chuyển đổi phát triển kinh tế trang trại của huyện và xã. Qua 5 năm đầu tư xây dựng, hiện nay tôi nuôi 30 lợn con nái ngoại, 200 con lợn thịt, trồng 400 cây bưởi diễn, 200 cây cam đường canh và thả cá hơn 1 mẫu ao. Vậy mà ngân hàng thẩm định chỉ cho tôi vay không quá 100 triệu đồng, tôi phải dùng 2 “sổ đỏ” thế chấp mới vay được ngân hàng 250 triệu đồng. Nhiều khi thiếu vốn, tôi phải vay nặng lãi của tư nhân tới 6%/tháng. Cũng như anh Khánh, nhiều chủ trang trại cũng đang loay hoay đánh vật với bài toán thiếu vốn. Khi mới xây dựng trang trại là lúc cần vốn nhất thì các chủ trang trại lại càng thiếu tài sản bảo đảm, càng không được ngân hàng tin tưởng cho vay nên khả năng tiếp cận với nguồn vốn tín dụng càng hạn chế. Giấy chứng nhận kinh tế trang trại có ý nghĩa quan trọng giúp các chủ trang trại tiếp cận nguồn vốn tín dụng thuận lợi hơn, nhưng qua hơn 2 năm triển khai cấp giấy chứng nhận kinh tế trang trại, toàn tỉnh mới có 61 trang trại được cấp giấy chứng nhận. Như vậy mới chỉ có 2,5% tổng số trang trại của tỉnh đủ tiêu chí của Bộ Nông nghiệp - PTNT và Tổng cục Thống kê có thể được hưởng các chính sách ưu đãi về tín dụng của tỉnh theo Quyết định 46/2005/QĐ - UBND.
Để đáp ứng nhu cầu vốn cho KTTT, các ngân hàng, chính quyền và cơ quan chức năng cần sớm tháo gỡ những vướng mắc về tài sản thế chấp khi vay vốn của các trang trại. Bản thân các trang trại, nếu nỗ lực nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, hoạt động “chuyên nghiệp” hơn, nhất là khả năng xây dựng và thực hiện các dự án đầu tư, tất yếu sẽ thu hút được dòng vốn tín dụng thương mại.
Đức Long
- Kỹ thuật chăn nuôi gia súc, gia cầm và các loại đặc sản
- Kỹ thuật trồng trọt cây ăn trái, rau màu và các loại cây lương thực, cây công nghiệp khác
Các tin mới:
Các tin cũ: năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009 | 2008 | 2007 | 2006:
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
38
39
40
41
42
43
44
45
46
47
48
49
50
51
52
53
54
55
56
57
58
59
60
61
62
63
64
65
66
67
68
69
70
71
72
73
74
75
76
77
78
79
80
81
82
83
84
85
86
87
88
89
90
91
92
93
94
95
96
97
98
99
100
101
102
103
104
105
106
107
108
109
110
111
112
113
114
115
116
117
118
119
120
121
122
123
124
125
126
127
128
129
130
131
132
133
134
135
136
137
138
139
140
141
142
143
144
145
146
147
148
149
150
151
152
153
154
155
156
157
158
159
160
161
162
163
164
165
166
167
168
169
170
171
172
173
174
175
176
177
178
179
180
181
182
183
184
185
186
187
188
189
190
191
192
193
194
195
196
197
198
199
200
201
202
203
204
205
206
207
208
209
210
211
212
213
214
215
216
217
218
219
220
221
222
223
224
225
226
227
228
229
230
231
232
233
234
235
236
237
238
239
240
241
242
243
244
245
246
247
248
249
250
251
252
253
254
255
256
257
258
259
260
261
262
263
264
265
266
267
268
269
270
271
272
273
274
275
276
277
278
279
280
281
282
283
284
285
286
287
288
289
290
291
292
293
294
295
296
297
298
299
300
301
302
303
304
305
306
307
308
309
310
311
312
313
314
315
316
317
318
319
320
321
322
323
324
325
326
327
328
329
330
331
332
333
334
335
336
337
338
339
340
341
342
343
344
345
346
347
348
349
350
351
352
353
354
355
356
357
358
359
360
361
362
363
364
Kỹ thuật chăn nuôi, trồng trọt, nuôi trồng và chế biến thủy hải sản
Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.