Nguồn tin: Nhân Dân, 17/09/2009
Ngày cập nhật:
21/9/2009
Bắc Giang là tỉnh trung du miền núi, diện tích rừng và đất rừng gấp 1,5 lần đất nông nghiệp. Nhưng giá trị kinh tế từ rừng và đất rừng đem lại cho địa phương hạn chế. Ðời sống đồng bào miền núi, vùng cao, tỷ lệ nghèo đói còn chiếm hơn 50 - 60%. Xóa đói nghèo cho đồng bào đã và đang là nhiệm vụ cấp bách của tỉnh Bắc Giang hiện nay.
Không có đất rừng để sản xuất
Câu chuyện người dân sống ở rừng mà không có đất rừng để sinh sống, nghe tưởng vô lý, nhưng đó là sự thật ở nhiều xã vùng cao các huyện Sơn Ðộng và Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang. Dịp về công tác ở xã Cấm Sơn, vùng cao của huyện Lục Ngạn, tôi hỏi xã có bao nhiêu đất nông nghiệp? Ðồng chí Chủ tịch UBND xã cho biết: Ðất ruộng của xã khi đắp đập Cấm Sơn nước dâng ngập hết. Bây giờ dân chỉ cấy vớt khi nước rút xuống thôi.
- Thế còn đất rừng xã có bao nhiêu? Tôi hỏi tiếp. Ðồng chí Chủ tịch cười chỉ tay ra phía cửa nói:
- Ấy dà, rừng thì nhiều đấy nhưng dân không có đâu.
Tìm hiểu thực tế mới biết, đúng là diện tích rừng và đất rừng ở Cấm Sơn mênh mông hàng nghìn ha. Nhưng là rừng phòng hộ đầu nguồn do Nhà nước quản lý. Một số diện tích rừng trồng do Lâm trường (nay là Công ty Lâm nghiệp) quản lý. Một số hộ dân được Ban quản lý rừng phòng hộ thuê bảo vệ với giá 50.000 đồng/ha/năm. Thực tế đồng bào các dân tộc ở xã Cấm Sơn không có rừng và đất rừng để sản xuất. Cho nên cái nghèo đói cứ bám mãi chưa dứt. Tình trạng dân ở rừng không có đất để sản xuất đã kéo dài từ nhiều năm không chỉ có ở xã Cấm Sơn mà các xã vùng cao huyện Lục Ngạn và huyện Sơn Ðộng cũng đồng cảnh ngộ ở rừng mà không có đất sản xuất. Theo kết quả điều tra quy hoạch ba loại rừng, toàn tỉnh hiện có 177.319 ha rừng và đất đồi núi chưa sử dụng. Trong đó đất rừng tự nhiên là 70.924 ha, đất rừng trồng 85.144 ha, đất đồi núi chưa có rừng là 21.250 ha. Thực hiện các chính sách lâm nghiệp của Ðảng và Nhà nước, từ đầu những năm 80 của thế kỷ trước, Bắc Giang đã giao được 146.346 ha rừng và đất rừng cho sáu lâm trường, hai ban quản lý rừng phòng hộ, một ban quản lý rừng đặc dụng với diện tích 54.086 ha. Qua các đợt giao đất, giao rừng cho hộ nông dân sản xuất kinh doanh, đến nay Bắc Giang đã giao cho 54.786 hộ với diện tích 92.259 ha, còn lại 30.973 ha hiện giao cho UBND xã quản lý.
Trên danh nghĩa hiện nay, 82,6% diện tích rừng và đất rừng ở Bắc Giang đã được giao cho các chủ quản lý sử dụng. Nhưng hiệu quả kinh tế thấp; sản xuất lâm nghiệp vẫn trong tình trạng quảng canh, chất lượng giống cây trồng rừng kém, cho nên nguồn thu nhập từ rừng của lâm trường và hộ làm rừng thấp. Người làm rừng chưa sống được từ rừng. Một bộ phận nông dân ở vùng cao, vùng đầu nguồn chưa có đất sản xuất. Qua điều tra mới đây cho thấy, tiềm năng đất đồi rừng của tỉnh còn rất lớn, nhưng phân tán ở vùng xa, vùng sâu. Tỉnh chưa tạo được quỹ đất rừng để thu hút các cá nhân, doanh nghiệp có vốn, kỹ thuật đầu tư vào sản xuất kinh doanh lâm nghiệp. Trong khi đó hơn 30 nghìn ha rừng và đất rừng hiện nay do UBND các xã quản lý gần như bỏ hoang do không có vốn. Mặt khác chất lượng, quy trình giao đất, giao rừng những năm trước đây hạn chế, giao đất rừng chưa gắn với đánh giá chất lượng, trữ lượng, diện tích rừng. Chính sách hưởng lợi từ rừng của các hộ dân chưa rõ ràng, dân chưa yên tâm đầu tư vào sản xuất. Việc giao đất, giao rừng ở một số địa phương ranh giới giao trên bản đồ và trên thực địa vênh nhau, gây khó khăn cho việc xác định diện tích để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâm nghiệp của dân. Tình trạng tranh chấp, lấn chiếm đất rừng thường xảy ra, gây khó khăn cho việc quản lý, triển khai các chính sách về lâm nghiệp của Nhà nước đối với đồng bào vùng cao. Công tác lập và quản lý hồ sơ giao đất, giao rừng chưa thống nhất, chất lượng hồ sơ bản đồ chưa theo hệ quy chuẩn quốc gia VN2000 của Bộ Tài nguyên và Môi trường, kinh phí đầu tư cho giao đất, giao rừng có 15.000 đồng/ha nên không có điều kiện điều tra cắm mốc khi giao, cho nên các hộ nhận đất rừng chưa có đủ giấy tờ pháp lý để vay vốn ngân hàng đầu tư cho phát triển sản xuất lâm nghiệp. Những năm qua, tỉnh Bắc Giang đã dành nguồn vốn ưu tiên cho việc phát triển giao thông đến các xã miền núi, vùng cao, song hệ thống đường lâm nghiệp từ nhiều năm không có ai lo, hầu như hư hỏng hết; sản phẩm từ rừng do nhân dân sản xuất ra không có đường vận chuyển. Trên địa bàn tỉnh chưa có một tổ chức kinh doanh nào đứng ra thu mua lâm sản cho dân. Sản phẩm do người dân làm ra từ rừng đều qua tay tư thương, bị ép cấp, ép giá. Người dân làm rừng luôn phải chịu thiệt thòi. Việc quản lý khai thác rừng và đất rừng nhiều năm qua còn mang nặng tính bao cấp. Nhà nước chậm có chính sách thuê đất, thuê rừng theo cơ chế thị trường nên hiệu quả kinh doanh lâm nghiệp thấp. Công nghiệp chế biến hầu như không có.
Làm gì để người dân sống được từ rừng?
Nghị quyết Ðại hội Ðảng bộ tỉnh Bắc Giang lần thứ 16 (nhiệm kỳ 2006 - 2010) đã xác định: Phát huy sử dụng tối đa lợi thế của rừng và nguồn lao động ở địa phương, bảo vệ, phát triển tài nguyên rừng, nâng độ che phủ của rừng lên 40% diện tích của tỉnh vào năm 2010, đưa sản xuất lâm nghiệp thành một ngành kinh tế quan trọng, góp phần cải thiện đời sống đồng bào dân tộc thiểu số ở miền núi vùng cao, xóa đói, giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới. Ðể thực hiện được mục tiêu do Ðại hội Ðảng bộ đề ra, từ năm 2007, tỉnh Bắc Giang đã tiến hành rà soát, thống kê lại quỹ đất rừng hiện có gồm gần 31.000 ha rừng và đất rừng do UBND các xã quản lý; thu hồi 6.000 ha đất rừng do các lâm trường trước đây quản lý sử dụng kém hiệu quả. Tỉnh đã tiến hành điều tra quy hoạch, hoàn thiện hồ sơ 32.565 ha rừng phòng hộ và rừng đặc dụng, giao cho các ban quản lý. Còn diện tích thu hồi của UBND các xã và các công ty lâm nghiệp, tỉnh chủ trương dành 30.000 ha để giao cho các hộ nông dân ở miền núi vùng cao hiện chưa có đất sản xuất, 7.000 ha đất rừng còn lại kêu gọi các doanh nghiệp, cá nhân có tiềm lực về vốn, kỹ thuật thuê đất để sản xuất lâm nghiệp.
Ðể triển khai đề án giao rừng và cho thuê rừng gắn với giao đất, thuê đất sản xuất lâm nghiệp giai đoạn 2009 - 2013, UBND tỉnh đã thành lập Ban chỉ đạo do đồng chí Phó Chủ tịch UBND tỉnh làm Trưởng ban, lãnh đạo các Sở NN và PTNT, TN - MT làm phó trưởng ban. Tham gia Ban chỉ đạo còn có các Sở Kế hoạch và Ðầu tư, Tài chính, Chi cục Kiểm lâm, Chi cục Lâm nghiệp và Chủ tịch UBND huyện Sơn Ðộng, Lục Ngạn, Lục Nam, Yên Thế là những huyện còn nhiều rừng và đất rừng. Sau một thời gian xây dựng đề án giao đất rừng và thuê đất rừng giai đoạn 2009 - 2013, tháng 3-2009, UBND tỉnh Bắc Giang đã có quyết định phê duyệt đề án. Ðồng thời giao cho bốn huyện có nhiều rừng và đất rừng thành lập ban chỉ đạo từ huyện tới xã để xây dựng, thông qua kế hoạch giao đất, giao rừng tới hộ dân. Theo kế hoạch, tỉnh phấn đấu hết năm 2010, ưu tiên giao 30.000 ha cho các hộ cá nhân đang nhận khoán trồng và bảo vệ rừng và các hộ đang sinh sống tại địa phương còn thiếu đất sản xuất, còn lại 7.000 ha, tỉnh ưu tiên cho cá nhân, đơn vị có nhu cầu thuê đất rừng sản xuất kinh doanh lâm nghiệp (theo Ðiều 25 Luật Bảo vệ và phát triển rừng). Ðối với diện tích rừng tự nhiên và rừng trồng bằng vốn ngân sách khi giao cho đơn vị, cá nhân có thu tiền sử dụng tài nguyên. Diện tích này còn khoảng 5.000 ha. Việc xây dựng đề án giao đất giao rừng do chính quyền địa phương chủ trì, nhưng phải có sự tham gia của đoàn thể và đại diện nhân dân. Việc giao đất rừng và cho thuê phải thực hiện công khai dân chủ đúng thủ tục pháp luật, đúng thẩm quyền, không để xảy ra khiếu kiện tranh chấp trước và sau khi giao. Về hạn mức giao căn cứ vào quỹ rừng và đất rừng hiện có của từng địa phương, nhưng không được vượt quá quy định của Luật Bảo vệ và phát triển rừng. Hộ nhận rừng không quá 25 ha/hộ, hộ nhận đất trống đồi núi trọc không quá 30 ha/hộ.
Ðồng chí Vi Văn Giang Chủ tịch UBND xã Phong Vân, huyện Lục Ngạn, cho biết: diện tích đất lâm nghiệp của xã có 3.108 ha, nhưng đều do Ban quản lý rừng phòng hộ và Công ty lâm nghiệp quản lý. Dân địa phương chỉ là người được lâm trường (nay là Công ty lâm nghiệp) thuê trồng, chăm sóc, bảo vệ. Thực hiện đề án của tỉnh và huyện, qua rà soát quy hoạch lại các công ty lâm nghiệp Lục Ngạn và Ban quản lý rừng phòng hộ đã giao lại cho xã 1.534 ha để giao cho dân và cho thuê theo quy định của Nhà nước. Căn cứ vào số hộ dân trong xã, ban chỉ đạo giao đất rừng dự kiến giao nhiều nhất ba ha/hộ, ít nhất là một ha/hộ. Nhờ công tác tuyên truyền giải thích rõ nội dung đề án giao đất, giao rừng sâu rộng trong nhân dân, ngay đợt đầu toàn xã đã có 338 hộ làm đơn xin nhận đất, xã đã duyệt được 228 đơn với diện tích 465,37 ha đề nghị cấp trên xét duyệt cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để dân yên tâm sản xuất kinh doanh. Theo người dân tính toán, trồng một ha rừng bằng giống mô hom, có chăm bón chu đáo chỉ sáu năm cho thu hoạch từ 125 đến 130 triệu đồng, bình quân một năm thu hơn 20 triệu đồng, số tiền này không nhỏ đối với người vùng cao. Ở huyện Yên Thế có hộ nhận 30 ha đất trồng rừng qua hơn 10 năm, giờ đã trở thành tỷ phú.
Ðể thực hiện đề án giao đất, giao rừng và cho thuê đất rừng giai đoạn 2009 - 2013, tỉnh Bắc Giang dự kiến chi gần 34 tỷ đồng cho việc xây dựng đề án, chuyển hệ quy chiếu bản đồ, điều tra quy hoạch thực địa, cập nhật hồ sơ dữ liệu vào phần mềm quản lý, đào tạo và tuyên truyền, trang bị cơ sở vật chất, kỹ thuật, thực hành tổ chức giao đất giao rừng và cho thuê rừng trên thực địa.
Ðánh giá việc xây dựng và triển khai thực hiện đề án giao rừng và cho thuê đất rừng, đồng chí Nguyễn Văn Linh, Phó Chủ tịch UBND tỉnh, Trưởng ban chỉ đạo cho biết: Việc xây dựng đề án là cấp thiết. Quá trình triển khai, thực hiện đề án sẽ từng bước hoàn thiện công tác quản lý, bảo vệ phát triển lâm nghiệp bền vững, khai thác có hiệu quả tài nguyên rừng và đất rừng của tỉnh, góp phần thực hiện thắng lợi nghị quyết Ðại hội Ðảng bộ lần thứ 16, phát triển lâm nghiệp - xã hội, xóa đói, giảm nghèo cho đồng bào dân tộc thiểu số miền núi, vùng cao của tỉnh. Với tinh thần tích cực, sáng tạo và sự chỉ đạo thống nhất, dân chủ, công khai, chắc chắn sản xuất lâm nghiệp ở Bắc Giang sẽ có bước chuyển mạnh mẽ theo hướng sản xuất hàng hóa, tập trung có hiệu quả cao.
HOÀNG TIẾN
- Kỹ thuật chăn nuôi gia súc, gia cầm và các loại đặc sản
- Kỹ thuật trồng trọt cây ăn trái, rau màu và các loại cây lương thực, cây công nghiệp khác
Các tin mới:
Các tin cũ: năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009 | 2008 | 2007 | 2006:
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
38
39
40
41
42
43
44
45
46
47
48
49
50
51
52
53
54
55
56
57
58
59
60
61
62
63
64
65
66
67
68
69
70
71
72
73
74
75
76
77
78
79
80
81
82
83
84
85
86
87
88
89
90
91
92
93
94
95
96
97
98
99
100
101
102
103
104
105
106
107
108
109
110
111
112
113
114
115
116
117
118
119
120
121
122
123
124
125
126
127
128
129
130
131
132
133
134
135
136
137
138
139
140
141
142
143
144
145
146
147
148
149
150
151
152
153
154
155
156
157
158
159
160
161
162
163
164
165
166
167
168
169
170
171
172
173
174
175
176
177
178
179
180
181
182
183
184
185
186
187
188
189
190
191
192
193
194
195
196
197
198
199
200
201
202
203
204
205
206
207
208
209
210
211
212
213
214
215
216
217
218
219
220
221
222
223
224
225
226
227
228
229
230
231
232
233
234
235
236
237
238
239
240
241
242
243
244
245
246
247
248
249
250
251
252
253
254
255
256
257
258
259
260
261
262
263
264
265
266
267
268
269
270
271
272
273
274
275
276
277
278
279
280
281
282
283
284
285
286
287
288
289
290
291
292
293
294
295
296
297
298
299
300
301
302
303
304
305
306
307
308
309
310
311
312
313
314
315
316
317
318
319
320
321
322
323
324
325
326
327
328
329
330
331
332
333
334
335
336
337
338
339
340
341
342
343
344
345
346
347
348
349
350
351
352
353
354
355
356
357
358
359
360
361
362
363
364
Kỹ thuật chăn nuôi, trồng trọt, nuôi trồng và chế biến thủy hải sản
Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.