Nguồn tin: Báo Cần Thơ, 08/12/2010
Ngày cập nhật:
10/12/2010
ĐBSCL có lợi thế phát triển sản xuất nông nghiệp so với các vùng khác trong cả nước. Là vựa lúa, nơi cung cấp chủ yếu nguồn nguyên liệu cho cả nước trong xuất khẩu nông - thủy sản... nhưng sản xuất nông nghiệp vùng ĐBSCL còn nhiều bất cập, nông dân còn gặp nhiều rủi ro trong sản xuất. Làm gì để vùng ĐBSCL xây dựng nền nông nghiệp theo hướng hiệu quả và bền vững? Chúng tôi xin lược ghi một số ý kiến của các nhà khoa học, nhà quản lý trong Hội thảo “Nông nghiệp Việt Nam: Hiệu quả - Bền vững” vừa được tổ chức tại TP Cần Thơ.
* TIẾN SĨ LÊ VĂN BẢNH, VIỆN TRƯỞNG VIỆN LÚA ĐBSCL: “LIÊN KẾT VÙNG VÀ THAM GIA 4 NHÀ” - HƯỚNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CHO CÂY LÚA
Đối với cây lúa ở vùng ĐBSCL, “liên kết vùng và tham gia 4 nhà” là rất quan trọng. Bởi vì, ĐBSCL là vùng trọng điểm an ninh lương thực quốc gia và cho xuất khẩu. Liên kết sẽ giúp thực thi các kế hoạch và chiến lược sản xuất lúa, an ninh lương thực đến tận địa phương; tìm sự đồng thuận của các địa phương trong vùng, không những nguồn lực nhà nước mà cả xã hội để sản xuất và tiêu thụ lúa gạo nhằm gia tăng thu nhập cao nhất cho nông dân. Việc liên kết cũng nhằm nghiên cứu chuỗi giá trị của lúa gạo và của đồng ruộng. Thông qua sự liên kết, hoạt động trở thành hệ thống, từ đó giúp Chính phủ và các bộ, ngành đưa ra các chính sách và cơ chế phù hợp để phát triển lúa gạo và tăng thu nhập cho nông dân trồng lúa trong vùng.
Có 4 nhóm giải pháp cho “liên kết vùng và tham gia 4 nhà”. Thứ nhất, ứng dụng các giải pháp khoa học công nghệ trong chọn tạo giống lúa có năng suất cao, phẩm chất tốt, chống chịu được sâu bệnh và điều kiện khó khăn do biến đổi khí hậu: lũ lụt, ngập úng, khô hạn, ngập mặn, nắng nóng... Thứ hai, nhóm các giải pháp kỹ thuật sản xuất lúa thích ứng hội nhập kinh tế quốc tế và biến đổi khí hậu. Thứ ba, nhóm giải pháp tổ chức sản xuất và liên kết bằng việc xây dựng kinh tế hợp tác, công ty cổ phần nông nghiệp, vùng chuyên canh trong sản xuất lúa; nâng cao năng lực tổ chức và quản lý trong sản xuất lúa; tăng cường liên kết 4 nhà, đặc biệt là doanh nghiệp với nông dân... Cuối cùng là nhóm giải pháp phát triển thị trường lúa gạo thông qua việc nghiên cứu chuỗi giá trị sản xuất lúa gạo; xây dựng thương hiệu lúa gạo và xây dựng hệ thống cung cấp thông tin thị trường, thông tin - quảng bá.
Thực hiện đồng bộ các giải pháp trên sẽ tạo được tính liên kết bền vững trong sản xuất lúa gạo ở vùng ĐBSCL, đảm bảo chiến lược an ninh lương thực. Đồng thời, nâng cao chuỗi giá trị trong sản xuất lúa gạo - chuỗi giá trị của đồng ruộng và chính sách cho người trồng lúa; tăng thu nhập, nâng cao đời sống cho nông dân; đảm bảo an sinh xã hội, tạo dựng nông thôn mới tươi đẹp, bền vững.
* PGS.TS NGUYỄN VĂN HUỲNH, KHOA NÔNG NGHIỆP VÀ SINH HỌC ỨNG DỤNG, TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ: ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ SINH THÁI ĐỂ KIẾN THIẾT ĐỒNG RUỘNG NHƯ Ý MUỐN
Ngày nay, nếu con người có thể áp dụng công nghệ sinh học để tạo ra giống cây trồng mới có đặc tính theo ý muốn thì có thể dùng công nghệ sinh thái (những tác động của môi trường dựa trên những nguyên tắc về sinh thái) để kiến thiết đồng ruộng. Việc làm này nhằm thu hút thiên địch diệt trừ sâu hại, đặc biệt là rầy, bảo vệ cây trồng, giảm thiểu sử dụng thuốc trừ sâu.
Từ vụ đông xuân 2009 - 2010, ứng dụng công nghệ sinh thái đã cho kết quả rất tốt trong mô hình “3 giảm, 3 tăng”, “1 phải, 5 giảm” tại huyện Cai Lậy và Cái Bè (Tiền Giang). Nơi có rầy nâu, bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá gây hại nghiêm trọng. Nông dân trong mô hình được tập huấn kỹ thuật canh tác tiên tiến, áp dụng phương pháp sạ “né rầy” và hạn chế việc sử dụng thuốc trừ sâu bằng cách trồng các loại cỏ có hoa như: sài đất, cúc gót, xuyến chi, cỏ cức heo... trên bờ ruộng. Hoa được trồng trước trên bờ ruộng để khi xuống giống lúa đã có sẵn hoa, thu hút thiên địch ngay từ đầu. Kết quả, dù không sử dụng thuốc trừ sâu trong suốt vụ lúa nhưng năng suất lúa ở mô hình thực nghiệm đạt từ 7 - 8 tấn/ha. Mô hình vẫn cho kết quả tốt khi nông dân ở Cai Lậy tiếp tục ứng dụng (trồng bổ sung thêm cây màu có hoa như: đậu bắp, bắp...) ở vụ hè thu sớm, hè thu chính vụ vừa qua. Tại An Giang, từ vụ hè thu 2010, nhóm 15 nông dân ở xã Vĩnh Bình, huyện Châu Thành cùng tham gia mô hình trồng hoa (sao nhái, cúc mặt trời, mè, trâm ổi...) trên bờ ruộng bao quanh cánh đồng lúa 30 ha “1 phải, 5 giảm”. Kết quả, toàn bộ diện tích lúa không phải phun thuốc trừ sâu nhưng năng suất vẫn đạt 6,5 tấn/ha...
Trước những diễn biến bất thường của thời tiết (khô hạn, lũ lụt,...), gia tăng dân số... khiến sản xuất lúa gạo ĐBSCL và cả nước đang đứng trước nhiều thách thức lớn. Ngoài ra, “cơn sóng thần thuốc trừ sâu hóa học độc hại” đã và đang làm giảm tính đa dạng sinh học, tiêu diệt quần thể thiên địch, ký sinh trong ruộng lúa, gây bộc phát rầy nâu hại lúa ngày càng nghiêm trọng. Vì vậy, việc đưa ứng dụng công nghệ sinh thái vào mô hình “3 giảm, 3 tăng”, “1 phải, 5 giảm” cho cây lúa sẽ đóng vai trò then chốt, là cơ sở vững chắc cho sản xuất lúa gạo ĐBSCL được hiệu quả và bền vững theo hướng “thực hành nông nghiệp tốt” - GAP.
* THẠC SĨ LÊ NGỌC DIỆN, PHÓ CHI CỤC TRƯỞNG, CHI CỤC THỦY SẢN TP CẦN THƠ: XÂY DỰNG THƯƠNG HIỆU, TIẾN TỚI VIỆC ĐỊNH GIÁ, ĐẤU THẦU XUẤT KHẨU SẢN PHẨM CÁ TRA
Ngành công nghiệp nuôi và chế biến xuất khẩu cá tra ở ĐBSCL đã và đang khẳng định thế mạnh so với các đối tượng thủy sản khác. Tuy nhiên, nó cũng đang đối mặt với nhiều thách thức cho sự phát triển bền vững. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng vừa nêu là do: Chưa có sự gắn kết chặt chẽ giữa người nuôi và doanh nghiệp chế biến; giá thức ăn nuôi cá liên tục tăng cao; nhiều rào cản thương mại cũng như kỹ thuật của các nước nhập khẩu đặt ra làm ảnh hưởng đến sản lượng cá tra xuất khẩu...
Đưa con cá tra vào xu thế phát triển bền vững, nhà nước cần quy định giá sàn nguyên liệu, thức ăn nuôi cá tra, giá sàn cá tra nguyên liệu và giá sàn xuất khẩu cá tra thành phẩm. Các ngành hữu quan sớm hoàn thành việc xây dựng thương hiệu cá tra Việt Nam để bảo vệ bản quyền và tăng sức cạnh tranh của sản phẩm cá tra trên thị trường. Không chỉ vậy, thương hiệu đủ mạnh sẽ dễ dàng tiến tới việc định giá và đấu thầu xuất khẩu sản phẩm cá tra trên thị trường thế giới. Ngoài các vấn đề vừa nêu, các địa phương trong vùng cần hình thành vùng sản xuất sản lượng lớn cá tra đi đôi với việc đầu tư cơ sở hạ tầng để sản xuất theo quy trình chất lượng quốc tế, đào tạo nâng cao trình độ cho người nuôi cá tra... Các cơ quan quản lý nhà nước cần tăng cường hơn nữa kiểm tra điều kiện sản xuất kinh doanh các ngành nghề thủy sản; kiểm soát chặt chẽ chất lượng con giống; ban hành quy chuẩn quốc gia, tiêu chuẩn kỹ thuật cho cá tra nguyên liệu, thức ăn nuôi cá tra... Ngoài ra, vấn đề quy hoạch vùng sản xuất nguyên liệu để sản xuất thức ăn nuôi thủy sản; quy hoạch các kho trữ đông, kho bảo quản nguyên liệu sản xuất thức ăn nuôi cá cũng phải được xem xét và tính toán thật kỹ.
Hiện nay, ở ĐBSCL xuất hiện nhiều mô hình liên kết sản xuất cá tra xuất khẩu (bao gồm người nuôi, doanh nghiệp chế biến, ngân hàng, các dịch vụ thủy sản) rất thành công. Điển hình như: Công ty Sohafood với Công ty Thủy sản Sông Hậu; Công ty Caseamex với hợp tác xã nuôi cá tra Hiệp Phát và một số hộ nuôi khác; Công ty Mekongfish với một số hộ nuôi; Công ty Bình An, Công ty Hùng Vương (Tiền Giang) với hợp tác xã nuôi cá tra XK Thới An (ÔMôn). Cần nhân rộng những điển hình này bởi liên kết là con đường tất yếu cho sự phát triển ngành nuôi trồng, chế biến và xuất khẩu cá tra theo hướng bền vững.
* TIẾN SĨ ĐỖ MINH NHỰT, PHÓ GIÁM ĐỐC SỞ NN&PTNT TỈNH KIÊN GIANG: KHUYẾN KHÍCH NÔNG DÂN HÌNH THÀNH VÙNG SẢN XUẤT QUY MÔ LỚN, TẬP TRUNG
Vấn đề quan tâm trong phát triển bền vững nền nông nghiệp trong thời gian tới chính là việc tính toán lại vùng sản xuất. Bởi lẽ, thực tế thời gian qua, ngành hàng nào, con gì... có tiềm năng và cơ hội phát triển thì hầu như địa phương nào cũng “nhảy vào” sản xuất. Điều này dẫn đến tình trạng thừa mứa nguyên liệu - con cá tra là một điển hình, dẫn đến nhiều hệ lụy xấu trong đời sống, sinh hoạt của người dân; ảnh hưởng lớn đến phát triển kinh tế và an sinh xã hội. Chính vì thế, vùng ĐBSCL nên quy hoạch lại vùng sản xuất cây ăn trái, thủy sản... đồng thời, tính toán lại cơ cấu, mùa vụ sản xuất cho phù hợp. Bên cạnh đó, các ngành hữu quan cũng cần quan tâm đến việc xây dựng thương hiệu để nâng cao giá trị, chất lượng, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa nông sản trên thị trường, nhất là thị trường xuất khẩu. Bởi lẽ, thời gian qua, nhiều loại nông sản của ĐBSCL và cả nước luôn có sản lượng xuất khẩu nằm trong tốp dẫn đầu thế giới như: gạo, cá tra, tiêu... nhưng nhiều lúc bị “ép uổng” tại các thị trường nhập khẩu.
Yếu tố phát triển bền vững của ngành nông nghiệp cũng đòi hỏi phải có sự liên kết. Đó là phát triển mối liên kết giữa các địa phương trong vùng trong việc phát triển ngành hàng, xây dựng vùng nguyên liệu... trên cơ sở thế mạnh, lợi thế của từng địa phương. Liên kết để phá tan nhược điểm lớn nhất trong sản xuất nông nghiệp hiện nay là: nông dân sản xuất nhỏ, lẻ; nguồn lực yếu... để hình thành các vùng sản xuất hàng hóa lớn. Yếu tố liên kết để phát triển không thể thiếu vai trò của liên kết 4 nhà. Mối liên kết này, quan tâm nhất là sự tương tác, hỗ trợ giữa doanh nghiệp và người nông dân trong chia sẻ những rủi ro và lợi nhuận. Bởi theo tính toán của các nhà khoa học, ở tất cả các chuỗi giá trị sản xuất nông nghiệp như chuỗi giá trị lúa gạo, chuỗi giá trị con cá tra... người nông dân trực tiếp sản xuất ra cây lúa, con cá có lợi nhuận rất thấp. Vì vậy, nếu không có giải pháp nâng cao thu nhập, lợi nhuận cho người nông dân, ngành nông nghiệp sẽ khó có thể phát triển bền vững. Muốn giải quyết vấn đề này, Nhà nước cần có cơ chế, chính sách mạnh mẽ hơn nữa hỗ trợ, khuyến khích nông dân trong việc hình thành các vùng sản xuất quy mô lớn, tập trung (dồn điền, đổi thửa) nhằm đưa cơ giới hóa vào sản xuất, nâng cao chất lượng hàng hóa nông sản...
HÀ TRIỀU - HOA
- Kỹ thuật chăn nuôi gia súc, gia cầm và các loại đặc sản
- Kỹ thuật trồng trọt cây ăn trái, rau màu và các loại cây lương thực, cây công nghiệp khác
Các tin mới:
Các tin cũ: năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009 | 2008 | 2007 | 2006:
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
38
39
40
41
42
43
44
45
46
47
48
49
50
51
52
53
54
55
56
57
58
59
60
61
62
63
64
65
66
67
68
69
70
71
72
73
74
75
76
77
78
79
80
81
82
83
84
85
86
87
88
89
90
91
92
93
94
95
96
97
98
99
100
101
102
103
104
105
106
107
108
109
110
111
112
113
114
115
116
117
118
119
120
121
122
123
124
125
126
127
128
129
130
131
132
133
134
135
136
137
138
139
140
141
142
143
144
145
146
147
148
149
150
151
152
153
154
155
156
157
158
159
160
161
162
163
164
165
166
167
168
169
170
171
172
173
174
175
176
177
178
179
180
181
182
183
184
185
186
187
188
189
190
191
192
193
194
195
196
197
198
199
200
201
202
203
204
205
206
207
208
209
210
211
212
213
214
215
216
217
218
219
220
221
222
223
224
225
226
227
228
229
230
231
232
233
234
235
236
237
238
239
240
241
242
243
244
245
246
247
248
249
250
251
252
253
254
255
256
257
258
259
260
261
262
263
264
265
266
267
268
269
270
271
272
273
274
275
276
277
278
279
280
281
282
283
284
285
286
287
288
289
290
291
292
293
294
295
296
297
298
299
300
301
302
303
304
305
306
307
308
309
310
311
312
313
314
315
316
317
318
319
320
321
322
323
324
325
326
327
328
329
330
331
332
333
334
335
336
337
338
339
340
341
342
343
344
345
346
347
348
349
350
351
352
353
354
355
356
357
358
359
360
361
362
363
364
Kỹ thuật chăn nuôi, trồng trọt, nuôi trồng và chế biến thủy hải sản
Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.