Nguồn tin: Báo Phú Thọ, 27/12/2010
Ngày cập nhật:
28/12/2010
Tính đến giữa năm 2010, trên địa bàn huyện Lâm Thao (Phú Thọ) có 220 trang trại với diện tích 223,1 ha. Trang trại đa dạng cả về quy mô và loại hình, mỗi năm đóng góp 20 - 26% tổng giá trị sản xuất nông lâm thủy sản của huyện, tạo việc làm thường xuyên cho 500 - 800 lao động địa phương… Tuy nhiên, so với tiềm năng và lợi thế thì phát triển kinh tế trang trại, ở Lâm Thao đang gặp một số trở ngại để có thể tạo ra các vùng sản xuất hàng hóa tập trung, góp phần thực hiện công nghiệp hóa - hiện đại hóa (CNH-HĐH) nông nghiệp nông thôn.
Cánh đồng sản xuất rau an toàn tại Tứ Xã, áp dụng nghiêm ngặt quy trình kỹ thuật bước đầu được nhiều người tìm đến đặt mua, học hỏi.
Những con số khích lệ
Đến năm 2007, toàn huyện có 69 trang trại đạt tiêu chí (tăng 15 trang trại so với năm 2005) gồm 20 trang trại tổng hợp, 9 trang trại nuôi trồng thủy sản, 38 trang trại chăn nuôi, 2 trang trại trồng cây hàng năm. Tổng diện tích sử dụng là 112 ha, bình quân 1,6 ha/trang trại, trong đó diện tích nhỏ nhất là 0,02 ha, lớn nhất là 7 ha/trang trại. Vốn đầu tư của các trang trại đạt 20,047 tỷ đồng, trong đó vốn tự có là 13,123 tỷ đồng, vốn vay ngân hàng 6,652 tỷ đồng, còn lại là vốn khác. Năm 2010, tổng doanh thu đạt 23,09 tỷ đồng, trong đó gồm: Thủy sản 2,821 tỷ đồng, chăn nuôi 19,502 tỷ đồng, trồng trọt 0,747 tỷ đồng, lâm nghiệp 0,02 tỷ đồng; doanh thu bình quân/năm của các trang trại đạt 334,6 triệu đồng.
Từ trước đến nay, các thành phần tham gia phát triển kinh tế trang trại chủ yếu là những hộ gia đình nông dân và một số doanh nghiệp gia đình cán bộ, công nhân đã nghỉ hưu có điều kiện về kinh tế; tập trung thực hiện các chương trình, dự án nông nghiệp trọng điểm như: Chăn nuôi lợn, chăn nuôi bò, nuôi trồng thủy sản… các trang trại ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, lựa chọn sử dụng các giống cây trồng, vật nuôi có năng suất, chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu của thị trường tiêu thụ như bò thịt, tôm càng xanh, lợn siêu nạc, lợn sữa, nuôi rắn, thỏ… Hiện tại, trong tổng số 220 trang trại được thống kê, có 113 trang trại nuôi rắn, 65 trang trại sản xuất kinh doanh (SXKD) tổng hợp, 29 trang trại chăn nuôi, 8 trang trại thủy sản, 5 trang trại trồng cây hàng năm. Mặt nước nuôi trồng thủy sản là 115,6 ha, đất nông nghiệp 92,6 ha (trồng cây hàng năm 50 ha, trồng cây lâu năm 42,6 ha), còn lại là đất khác. Số lao động của chủ hộ trang trại là 453 người, thuê ngoài thường xuyên 68 người, thuê thời vụ 186 người. Tổng đàn rắn là 19.585 con, lợn 8.545 con, gia cầm 50.800 con, trâu bò 46 con, thỏ 400 con, 170 đàn ong. Vốn đầu tư phát triển trang trại (từ tháng 7/2009 - 7/2010) 10,788 tỷ đồng, vốn vay 19,138 tỷ đồng, lãi vay phải trả 2,438 tỷ đồng, lãi vay đã trả 1,037 tỷ đồng. Giá trị sản lượng hàng hóa và dịch vụ đạt 57,602 tỷ đồng. Tổng thu nhập của các trang trại đạt 29,095 tỷ đồng, bình quân thu nhập mỗi trang trại: Thủy sản 338,125 triệu đồng/năm, trồng cây hàng năm 249 triệu đồng/năm, SXKD tổng hợp 214,37 triệu đồng/năm, chăn nuôi 182,34 triệu đồng/năm, nuôi rắn 52,416 triệu đồng/năm… Tuy chưa phát huy hết tiềm năng và lợi thế nhưng trong những năm gần đây, giá trị kinh tế/đơn vị diện tích đã tăng từ 29 triệu đồng (năm 2004) lên 70,3 triệu đồng/ha (năm 2010), tăng 10,2 triệu đồng/ha so với năm 2009. Đây cũng là một con số đáng khích lệ.
Những trở ngại lớn
Ông Triệu Vương Hà - Chủ tịch UBND huyện Lâm Thao cho biết: "Cái mắc nhất hiện nay ở Lâm Thao là vấn đề tích tụ ruộng đất. Hiện nay, rất nhiều chủ trang trại muốn đầu tư nhưng không dám vì quy định về đất đai đến năm 2013 có sự thay đổi, người dân thì chỉ cho mượn ruộng trong thời gian 1 - 2 năm/lần. Nếu giải quyết được khúc mắc này thì kinh tế trang trại có bước chuyển biến lớn. Cũng cần phải quy hoạch lại, tạo cơ chế thông thoáng hơn nữa đối với các trang trại, chính vì không dám đầu tư mà tình trạng sản xuất ở các trang trại còn manh mún, nhỏ lẻ, chưa tập trung nâng cao chất lượng sản phẩm; sự liên kết "4 nhà" vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế. Hàng năm ở Lâm Thao, nguồn thu lớn nhất của các chủ trang trại là từ thủy sản, sau đó đến chăn nuôi và trồng trọt, lâm nghiệp không đáng kể. Đã có những đối tác ở nước ngoài đến huyện đặt mua sản phẩm thủy sản của các trang trại làm ra với số lượng lớn nhưng không thực hiện được do sản phẩm chưa đáp ứng được yêu cầu".
Gia đình chị Nguyễn Thị Duyên, khu 2, xã Cao Xá (Lâm Thao) trồng 3 sào đu đủ cho thu nhập trên 25 triệu đồng/năm. Ảnh: Nguyên An
Theo tìm hiểu của chúng tôi, đất đai để lập trang trại chủ yếu là đất được cấp theo Nghị định 64 và diện tích các hộ tự dồn đổi cho thuê lại. Đối tượng dồn đổi, thu gom hầu hết là người địa phương có điều kiện kinh tế, gia đình có diện tích lớn. Mỗi chủ hộ muốn làm trang trại phải cần hàng trăm hộ sản xuất nông nghiệp dồn đổi, cho thuê ruộng. Đối tượng cho thuê, chuyển nhượng là các hộ nông dân khó khăn phải rời quê đi làm ăn xa hoặc không có điều kiện phát triển các ngành nghề và việc làm khác. Diện tích cho thuê, chuyển nhượng hầu hết là vùng đất không thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp (sâu trũng, ngập úng, xa đường giao thông…). Theo quy định như hiện nay, 1 chủ trang trại muốn được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) phải tập hợp đầy đủ GCNQSDĐ của những người cho thuê, chuyển nhượng thì mới được làm thủ tục chuyển nhượng. Điều này rất khó vì 1 chủ trang trại có diện tích 2 - 3 ha liên quan đến hàng chục hộ dân. Có người bán, người chỉ cho thuê, mượn. Mặt khác, việc thực hiện đúng các quy định của địa phương, tổ chức sản xuất theo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của chính quyền các cấp cũng là một trở ngại. Hoặc việc chuyển đổi, cho thuê, chuyển nhượng chưa đảm bảo theo qui định của Luật đất đai, chủ yếu thông qua hình thức có xác nhận của UBND xã, nên khó đầu tư.
Nhiều chủ trang trại cho rằng: Khó khăn về thiếu vốn đầu tư cũng là một trở ngại lớn, đặc biệt là tiếp cận nguồn vốn trung và dài hạn rất hạn chế. Với 3 chi nhánh ngân hàng (Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Chính sách xã hội, Công thương) trên địa bàn huyện thì chưa đủ cung ứng vốn cho các trang trại, gia trại, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay nguồn vốn huy động tiết kiệm chưa đáp ứng được nhu cầu vay vốn, các ngân hàng siết chặt cho vay đã gây khó khăn không nhỏ cho các chủ trang trại về vốn phục vụ nhu cầu đầu tư phát triển SXKD. Một trở ngại khác là việc đảm bảo vệ sinh môi trường chưa được các chủ trang trại quan tâm đầu tư nên chất lượng sản phẩm không đáp ứng được yêu cầu của các khách hàng lớn…
Ngoài ra, con số 220 trang trại chưa phản ánh được thực chất vấn đề, bởi vì theo chúng tôi được biết, ngay việc thống kê số trang trại cũng gặp khó khăn do những nguyên nhân khách quan và chủ quan. Trên thực tế, nếu chiếu theo các tiêu chí xác định trang trại tại Thông tư liên bộ số 69/2000/TTLB/BNN-TCTK thì vẫn còn một số trang trại trong dân chưa được đưa vào danh sách... Chính những trở ngại này trong nhiều năm đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc đánh giá thực tế, quy hoạch và thực hiện phát triển kinh tế trang trại ở Lâm Thao một cách chưa chính xác, còn bất cập, hiệu quả chưa cao. Đơn cử như nhìn vào cơ cấu kinh tế địa phương trong 5 năm gần đây có sự chuyển dịch không đồng đều, đặc biệt là tỷ trọng nông - lâm - thủy sản: 37% (2007), 40,06% (2008), 35,8% (2009), 33,77% (2010)…
Hy vọng rằng, với hạ tầng nông nghiệp tương đối thuận lợi, có cả "cận thị, cận giang, cận lộ", là cửa ngõ giao lưu hàng hóa giữa thủ đô Hà Nội với vùng Đông Bắc, Tây Bắc của Tổ quốc, trong những năm tới kinh tế trang trại ở Lâm Thao sẽ vượt qua được những trở ngại, phát huy được các lợi thế và tiềm năng để phát triển. Để thúc đẩy kinh tế trang trại phát triển cần làm tốt việc dồn đổi ruộng đất, tạo vùng đất làm trang trại quy mô lớn; có cơ chế thông thoáng hơn về đất đai, tín dụng, cấp GCNQSDĐ… để các chủ trang trại yên tâm đầu tư mới và mở rộng sản xuất, từ đó, tạo ra nhiều sản phẩm có chất lượng cao, đáp ứng thị hiếu người tiêu dùng, hướng tới thị trường xuất khẩu.
Ngọc Lam
- Kỹ thuật chăn nuôi gia súc, gia cầm và các loại đặc sản
- Kỹ thuật trồng trọt cây ăn trái, rau màu và các loại cây lương thực, cây công nghiệp khác
Các tin mới:
Các tin cũ: năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009 | 2008 | 2007 | 2006:
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
38
39
40
41
42
43
44
45
46
47
48
49
50
51
52
53
54
55
56
57
58
59
60
61
62
63
64
65
66
67
68
69
70
71
72
73
74
75
76
77
78
79
80
81
82
83
84
85
86
87
88
89
90
91
92
93
94
95
96
97
98
99
100
101
102
103
104
105
106
107
108
109
110
111
112
113
114
115
116
117
118
119
120
121
122
123
124
125
126
127
128
129
130
131
132
133
134
135
136
137
138
139
140
141
142
143
144
145
146
147
148
149
150
151
152
153
154
155
156
157
158
159
160
161
162
163
164
165
166
167
168
169
170
171
172
173
174
175
176
177
178
179
180
181
182
183
184
185
186
187
188
189
190
191
192
193
194
195
196
197
198
199
200
201
202
203
204
205
206
207
208
209
210
211
212
213
214
215
216
217
218
219
220
221
222
223
224
225
226
227
228
229
230
231
232
233
234
235
236
237
238
239
240
241
242
243
244
245
246
247
248
249
250
251
252
253
254
255
256
257
258
259
260
261
262
263
264
265
266
267
268
269
270
271
272
273
274
275
276
277
278
279
280
281
282
283
284
285
286
287
288
289
290
291
292
293
294
295
296
297
298
299
300
301
302
303
304
305
306
307
308
309
310
311
312
313
314
315
316
317
318
319
320
321
322
323
324
325
326
327
328
329
330
331
332
333
334
335
336
337
338
339
340
341
342
343
344
345
346
347
348
349
350
351
352
353
354
355
356
357
358
359
360
361
362
363
364
Kỹ thuật chăn nuôi, trồng trọt, nuôi trồng và chế biến thủy hải sản
Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.