Nguồn tin: ND, 22/1/2008
Ngày cập nhật:
23/1/2008
Xây dựng thương hiệu cà-phê đặc biệt mang tên "Ðà Lạt" là hết sức cần thiết nhằm khẳng định tiềm năng năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế cao; đồng thời thiết thực xóa đói, giảm nghèo, tiến tới làm giàu cho đồng bào dân tộc vùng sâu, vùng xa nơi đây.
Cây cà-phê chè ca-ti-mo ở quanh Vườn Quốc gia Bi Ðúp của tỉnh Lâm Ðồng phát triển rất tốt tuy đầu tư tiền vốn và kỹ thuật còn khiêm tốn. Có thể nói cây cà-phê chè ca-ti-mo ở đây thật sự là một cây xóa đói, giảm nghèo cho đồng bào vùng sâu, vùng xa, nhất là cho đồng bào dân tộc thiểu số vùng ven và vùng đệm bảo vệ Vườn Quốc gia, bảo vệ rừng đầu nguồn, rừng đặc dụng và nhất là bảo vệ nguồn tài nguyên đa dạng sinh học và môi trường sinh thái ở đây. Ba năm gần đây cây cà-phê chè ca-ti-mo thật sự làm đổi đời các hộ nghèo và các hộ dân tộc Chil ở đây. Nhờ có cà-phê chè ca-ti-mo mà rừng thông 2 lá, 5 lá quý hiếm được bảo vệ gần như nguyên vẹn. Không phấn chấn và vui mừng sao được khi được biết trồng cà-phê chè ca-ti-mo ở đây tỏ ra ưu việt hơn hẳn bất cứ nơi nào trên đất nước ta.
Ở độ cao lớn, khí hậu mát mẻ, lượng mưa càng sung mãn (trên 1.400mm/năm) càng thích hợp với đặc điểm sinh lý và sinh thái của cây cà-phê chè nói chung, cây cà-phê chè ca-ti-mo nói riêng. Rõ ràng TP Ðà Lạt và huyện Lạc Dương có ưu thế về độ cao (1.200 - 1.600 m), mát mẻ nhất trong số các vùng phát triển cà-phê chè của nước ta (nhiệt độ bình quân năm dưới 20oC, chênh lệch nhiệt độ giữa các tháng trong năm không cao, chỉ trong vòng 3,0oC), lượng mưa cũng khá sung mãn (đứng thứ 2 sau vùng cà-phê Khe Sanh của Quảng Trị). Do đó, tốc độ sinh trưởng và chất lượng cà-phê ở đây cũng được đánh giá là tốt nhất nước ta). Tính thích nghi bậc nhất vào điều kiện sinh thái của cây cà-phê chè ca-ti-mo ở đây còn biểu hiện ở các chỉ tiêu chất lượng và giá cả (tỷ lệ tươi nhân cùng thời điểm chín rộ của vùng Ðà Lạt và Lạc Dương là thấp nhất (6.0), trong khi đó hai vùng cà-phê chè nổi tiếng thứ 2 của cả nước là huyện Lâm Hà (Lâm Ðồng) và tỉnh Sơn La là 6.5, cao nhất là vùng Phủ Quỳ của Nghệ An (8.0 - 8.5). Chính nhờ có chất lượng tuyệt vời của hạt cà-phê chè mà giá một kg quả tươi của vùng Xuân Trường, Dạ Sar luôn cao hơn hẳn các vùng cà-phê chè khác của đất nước.
Tôi đã đi tới nhiều vườn cà-phê chè dưới chân núi của vườn quốc gia Bi Ðúp, được tận mắt nhìn các vườn cà-phê còn mang tính hoang dã (lẫn các cây cà-phê chè Buốc-bông, Ty-pi-ca, ca-ti-mo, thậm chí còn lẫn một số cây cà-phê chè quả vàng - cây cà-phê chè ca-tu-ra a-ma-ri-lô). Gọi là hoang dã vì không hề có tạo hình tỉa cành đã hàng chục năm nay, cây cà-phê sinh trưởng tự nhiên, cho quả tự nhiên theo tập tính sinh trưởng. Khi đến thăm một vườn cây cà-phê chè ca-ti-mo của một gia đình dân tộc Chil mới lập nghiệp, hai vợ chồng chỉ độ 21 - 22 tuổi; đã có một cháu gái khoảng 2 tuổi. Hai vợ chồng vừa trồng mới khoảng 1 ha cà-phê chè; nhưng cây con chỉ có 2 cặp lá, thân cây con chỉ đạt đường kính khoảng 1 mm (trong khi tiêu chuẩn cho cây con trồng mới phải đạt ít nhất 5 cặp lá và đường kính cây con phải đạt hơn 3,5 mm trở lên). Trong vườn cây còn khoảng 1.000 cây con cà-phê chè lá vàng úa rất èo ợt, nhiều cây lá đã rụng. Cặp vợ chồng giới thiệu với chúng tôi số cây này được Chính phủ cấp cho diện tích trồng mới sắp tới của gia đình. Khi hỏi thêm một số gia đình dân tộc Chil ở thôn Trạm Hành, xã Xuân Trường, TP Ðà Lạt, thôn 1, thôn 2 xã Ðạ Sar của huyện Lạc Dương họ đều nói họ chưa từng được tham gia một lớp tập huấn nào về trồng mới, chăm sóc, thu hoạch, chế biến, sau chế biến và bảo quản cà-phê. Có lẽ cây cà-phê chè ở đây chủ yếu được phát triển một cách tự phát, kỹ thuật trồng và chăm sóc có được nhờ truyền miệng nhau là chính. Cũng chính vì thế phần lớn các vườn cà-phê chè ở đây phải đến năm thứ 3 mới cho quả và năng suất năm này cũng chỉ đạt trên dưới 1 tạ nhân/ha. Ở vùng cà-phê chè Lâm Hà hay Khe Sanh mặc dù điều kiện sinh thái thua Ðà Lạt và Lạc Dương nhưng trồng có kỹ thuật, bảo đảm quy trình, cho nên chỉ năm thứ 2 sau khi trồng đã có thể thu 5 tạ nhân/ha thậm chí có thể đạt 7 - 8 tạ nhân/ha.
Có thể nói chính nhờ cây cà-phê chè Ca-ti-mo mà đời sống nhiều hộ dân tộc nghèo ở đây ổn định hơn, không tác động xấu đến rừng. Tương lai nhờ những vùng cà-phê này, ngành du lịch sinh thái ven quốc lộ Ðà Lạt - Nha Trang mới mở sẽ có đà phát triển nhảy vọt, mở ra tiềm năng xuất khẩu tại chỗ các sản phẩm cà-phê có chất lượng đặc biệt, tăng nhu nhập nhờ có giá trị gia tăng của mặt hàng cà-phê chất lượng cao mà không có nơi nào có được như ở các vùng này của tỉnh Lâm Ðồng.
Cách duy nhất và cũng là cách khả thi nhất để giữ được các vườn quốc gia quý giá của tỉnh Lâm Ðồng là:
Ðề nghị lãnh đạo tỉnh, TP Ðà Lạt, huyện Lạc Dương cho tiến hành điều tra thật chính xác diện tích thực tế hiện có về cà-phê ở đây để có chủ trương đúng đắn cho việc củng cố, phát triển cà-phê chè ca-ti-mo ở đây.
Ðề nghị Trung tâm Khuyến nông quốc gia dành một khoản ngân sách khuyến nông hằng năm để hỗ trợ việc củng cố thâm canh các vườn cà-phê chè ca-ti-mo của TP Ðà Lạt và huyện Lạc Dương.
Cây cà-phê chè có hiệu quả kinh tế rất cao; có thể nói không một cây nào, kể cả cây chè có thể cạnh tranh nổi với cây cà-phê chè ở đây. Vậy đề nghị các cấp chính quyền của tỉnh Lâm Ðồng có chủ trương quy hoạch một diện tích thỏa đáng chung quanh Vườn Quốc gia Bi Ðúp, Chư Zang Sin, Lang Bi-ang, nhất là ở các vùng đệm, các chân núi để phát triển cà-phê chè có thâm canh, có đầu tư kỹ thuật để cây cà-phê chè phát triển bền vững, cho năng suất cao ổn định.
Ða dạng hóa sản phẩm bằng cách giữ và phát huy hệ thống canh tác xen canh giữa cây hồng và cây cà-phê chè tại đây. Ðể phát huy hiệu quả kinh tế của hai cây này. Chúng tôi đề nghị xây dựng các xưởng chế biến (cho quả cà-phê và quả hồng) nhằm nâng cao giá trị gia tăng của hai loại sản phẩm đều là đặc sản này; không những tăng thu nhập cho người sản xuất mà còn hạn chế được khả năng ép bán, ép giá của các nhà buôn trung gian.
Xây dựng thương hiệu cà-phê đặc biệt mang tên "Ðà Lạt" là hết sức cần thiết và bức thiết hiện nay nhằm khẳng định tiềm năng năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế cao; đồng thời thiết thực xóa đói, giảm nghèo, tiến tới làm giàu cho đồng bào dân tộc Chil và đồng bào nghèo vùng sâu, vùng xa ở TP Ðà Lạt và huyện Lạc Dương. Sản lượng cà-phê của Việt Nam đứng hàng thứ hai trên thế giới, tuy nhiên chúng ta lại chưa xây dựng được một thương hiệu cà-phê nào mang tầm vóc tương xứng với sự lớn mạnh của ngành cà-phê. Một số công ty cà-phê hàng đầu thế giới như Netsle, Starbuck biết đến chất lượng cà-phê vối "Buôn Mê Thuột", Cà-phê chè "Ðà Lạt" của Việt Nam. Một khi chúng ta có thương hiệu cà-phê chè "Ðà Lạt", chúng ta sẽ tạo đà phát triển cho ngành cà-phê không chỉ cho tỉnh Lâm Ðồng mà cho cả Việt Nam chúng ta.
Tiến sĩ Lê Ðình Sơn (Hiệp hội cà-phê Ca-cao Việt Nam)
- Kỹ thuật chăn nuôi gia súc, gia cầm và các loại đặc sản
- Kỹ thuật trồng trọt cây ăn trái, rau màu và các loại cây lương thực, cây công nghiệp khác
Các tin mới:
Các tin cũ: năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009 | 2008 | 2007 | 2006:
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
38
39
40
41
42
43
44
45
46
47
48
49
50
51
52
53
54
55
56
57
58
59
60
61
62
63
64
65
66
67
68
69
70
71
72
73
74
75
76
77
78
79
80
81
82
83
84
85
86
87
88
89
90
91
92
93
94
95
96
97
98
99
100
101
102
103
104
105
106
107
108
109
110
111
112
113
114
115
116
117
118
119
120
121
122
123
124
125
126
127
128
129
130
131
132
133
134
135
136
137
138
139
140
141
142
143
144
145
146
147
148
149
150
151
152
153
154
155
156
157
158
159
160
161
162
163
164
165
166
167
168
169
170
171
172
173
174
175
176
177
178
179
180
181
182
183
184
185
186
187
188
189
190
191
192
193
194
195
196
197
198
199
200
201
202
203
204
205
206
207
208
209
210
211
212
213
214
215
216
217
218
219
220
221
222
223
224
225
226
227
228
229
230
231
232
233
234
235
236
237
238
239
240
241
242
243
244
245
246
247
248
249
250
251
252
253
254
255
256
257
258
259
260
261
262
263
264
265
266
267
268
269
270
271
272
273
274
275
276
277
278
279
280
281
282
283
284
285
286
287
288
289
290
291
292
293
294
295
296
297
298
299
300
301
302
303
304
305
306
307
308
309
310
311
312
313
314
315
316
317
318
319
320
321
322
323
324
325
326
327
328
329
330
331
332
333
334
335
336
337
338
339
340
341
342
343
344
345
346
347
348
349
350
351
352
353
354
355
356
357
358
359
360
361
362
363
364
Kỹ thuật chăn nuôi, trồng trọt, nuôi trồng và chế biến thủy hải sản
Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.