Nguồn tin: Nhân Dân, 11/11/2008
Ngày cập nhật:
12/11/2008
Thu hoạch lúa hè thu tại An Giang.
Nằm ở vùng trũng tứ giác Long Xuyên, cứ đến mùa lũ là ngập sâu trong nước hơn 1,5 m... vậy mà Thoại Sơn (An Giang) đã vượt lên những bất lợi của thiên nhiên, trở thành huyện đi đầu trong sản xuất lương thực, cùng với những mô hình sáng tạo về sống chung với lũ và cách làm hiệu quả về xây dựng giao thông nông thôn.
Câu chuyện của chúng tôi về nông thôn Thoại Sơn bắt đầu tại quán "cà-phê khuyến nông". Không dừng lại ở sản xuất nông nghiệp trên diện rộng, mà đi sâu vào thâm canh, tăng năng suất, nâng cao chất lượng thương phẩm cho hạt lúa phục vụ xuất khẩu, từ năm 2007 Thoại Sơn quy hoạch 135 ha thí điểm xây dựng mô hình "vùng sản xuất nông nghiệp công nghệ cao Ú" và quán cà-phê khuyến nông là điểm giao lưu của nhà khoa học, nhà doanh nghiệp và nông dân.
Quán cà-phê khuyến nông trang bị bộ máy vi tính có nối mạng internet để nông dân có thể truy cập mạng tìm thông tin khi cần, chủ yếu là các thông tin về ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, giá vật tư nông nghiệp, giá nông sản và các mô hình làm ăn hiệu quả từ các địa bàn khác. Hằng ngày có hàng trăm lượt nông dân đến đọc tài liệu, sách báo và truy cập mạng miễn phí. Bên tách cà-phê nóng hổi, nông dân có thể trao đổi kinh nghiệm, hỏi cán bộ khuyến nông về kỹ thuật sạ hàng, bón phân và nắm bắt thông tin mới trên mạng internet. Chuyện anh Hai Lúa với ước mơ "Tem lửa" (xe Honda Dream) xem ra đã quá cũ so với câu chuyện của những nông dân Thoại Sơn tại quán cà-phê khuyến nông, là hình ảnh của những nông dân thời kỳ CNH, HÐH.
Xây dựng "vùng sản xuất nông nghiệp công nghệ cao Ú" cũng chính là ứng dụng tiến bộ kỹ thuật mới xây dựng mô hình thâm canh tổng hợp tại An Giang. Trên văn bản thì gọi là dự án, chứ thực ra tại quán cà-phê khuyến nông, đó là việc giúp nông dân ứng dụng tổng hợp các tiến bộ kỹ thuật để xây dựng mô hình thâm canh tổng hợp, là việc liên kết nông dân, liên kết bốn nhà góp phần giải quyết vấn đề giảm giá thành sản xuất, bảo đảm đầu ra ổn định, là việc tăng hiệu suất lao động nông thôn trên cơ sở tận dụng phế phẩm nông nghiệp.
Ðể đáp ứng nhu cầu xuất khẩu gạo trên thị trường thế giới và sản xuất lương thực hàng hóa trên diện rộng đủ cung ứng cho các doanh nghiệp chế biến lương thực, nông dân vùng dự án tuyển chọn hai giống lúa chính làm giống chủ lực để sản xuất trong vụ đông xuân vừa qua và áp dụng sạ hàng trên 90% diện tích. Các nhà khoa học cũng giúp nông dân thiết lập một công thức bón phân thích hợp cho từng vùng. Tiếp theo là việc ứng dụng thuốc bảo vệ thực vật và chương trình "3 giảm, 3 tăng"... trực tiếp tiết kiệm chi phí phân bón, thuốc trừ sâu, sử dụng vật tư đúng quy cách, quy trình, đúng lịch thời vụ. Việc đưa máy gặt đập liên hợp vào thu hoạch lúa đã làm giảm từ 500.000 đồng đến 700.000 đồng/ha so với thu hoạch bằng tay, giúp tiết kiệm nhiều thời gian trong khâu thu hoạch mà chất lượng hạt gạo sau khi xay chà vẫn bảo đảm, giải quyết được sức ép thiếu nhân công cắt lúa vào thời điểm thu hoạch rộ. Tính cả thảy, nông dân trong vùng dự án tiết kiệm được chi phí sản xuất 2.391.000 đồng/ha từ sử dụng hợp lý giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, chi phí bơm nước và thu hoạch lúa bằng máy gặt đập liên hợp.
Không quên câu chuyện làm ăn trong mùa nước nổi, anh Ðoàn Minh Triết, Phó Chủ tịch UBND huyện Thoại Sơn cho biết, huyện là nơi quy tụ nhiều mô hình làm ăn trong mùa nước nổi. Ðúc rút kinh nghiệm mưu sinh của cư dân vùng lũ tứ giác Long Xuyên, Ban Cán sự đảng UBND tỉnh An Giang đưa ra đề án phát triển sản xuất, giải quyết việc làm, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân trong mùa nước nổi. Thoại Sơn chắt lọc những mô hình làm ăn để nhân rộng, cụ thể là mô hình nuôi tôm càng xanh, nuôi cá chân ruộng, nuôi cá ao hầm, nuôi cá trong vèo, lồng bè, bể cạn và nuôi lươn, hoặc mô hình chăn nuôi gia cầm sạch, chủ yếu là vịt đàn và mô hình trồng nấm rơm. Nếu như trước đây không lâu, cứ đến mùa lũ là nông dân nghèo thúc thủ trông chờ cứu trợ, thì nay bà con đã có thể tận dụng mặt ruộng, mặt nước trong mùa lũ để biến mùa nước nổi thành vụ sản xuất chính trong năm.
Vấn đề nữa mà chúng tôi quan tâm tìm hiểu, là cách thức tác động từ phía đảng bộ và chính quyền địa phương, cũng như sự đóng góp công sức và trí tuệ của người dân để nâng Thoại Sơn thành huyện có sản lượng lương thực cao nhất cả nước, cùng với những điển hình về xây dựng hạ tầng, giao thông nông thôn.
Ngược dòng từ thời điểm năm 1980 trở về trước, cứ vào mùa lũ là đồng đất Thoại Sơn chìm hơn 1,5 m trong nước, diện tích đất nông nghiệp chủ yếu là sản xuất lúa mùa nổi một vụ, năng suất chừng 1,2 tấn/ha. Từ năm 1980 đến 1987, chính quyền tỉnh chủ trương khai thác vùng đất hoang hóa tứ giác Long Xuyên, bước đầu chuyển 8.000 ha trên tổng số 38.000 ha đất hoang huyện Thoại Sơn sang sản xuất lúa hai vụ.
Thực hiện Nghị quyết của Tỉnh ủy An Giang, Thoại Sơn đã tập trung sức khai thác tứ giác Long Xuyên với những quyết tâm và sinh khí mới. Xác định thủy lợi là khâu đột phá khai thông huyết mạch cho tứ giác Long Xuyên, Thoại Sơn đã cơ bản hoàn thành mở rộng bốn tuyến kênh chính (kênh cấp 1), đào mới hơn 44 tuyến kênh cấp 2 và khoảng 400 tuyến kênh cấp 3 nội đồng, với tổng chiều dài hơn 900 km. Chỉ trong vòng 3 năm, toàn bộ 38.000 ha đất Thoại Sơn được chuyển sang sản xuất lúa hai vụ, chính thức xóa bỏ diện tích lúa mùa nổi - hoàn thành công cuộc khẩn hoang. Sản lượng lương thực của huyện tăng từ 92.000 tấn năm 1987 lên 312.000 tấn năm 1990, lương thực bình quân đầu người năm 1990 là 2.200 tấn, tăng ba lần so với năm 1987. Ðây là cơ sở để Thoại Sơn liên tục gần mười năm sau đó (1990-1999) có diện tích gieo trồng ổn định hơn 74.000 ha, sản lượng lương thực ổn định trong khoảng 370.000 tấn/năm.
Không thỏa mãn với cái đã có, huyện Thoại Sơn chủ trương xây dựng 11 đề án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, chú trọng xây dựng cơ sở hạ tầng và đê bao kiểm soát lũ. Năm 2000 là năm đầu huyện thực hiện đề án đê bao kiểm soát lũ nhằm sản xuất đa canh linh hoạt và ăn chắc cho nông dân. Ðến năm 2005, Thoại Sơn đã hoàn thành đầu tư xây dựng hệ thống đê bao chống lũ triệt để, sản xuất vụ 3 ăn chắc hơn 36.000 ha trồng lúa, nâng tổng số diện tích trồng lúa hằng năm đạt từ 89.236 ha lên 107.567 ha, với sản lượng lương thực toàn huyện đạt hơn 600 nghìn tấn mỗi năm, trở thành huyện có sản lượng lương thực hằng năm cao nhất cả nước.
Không chỉ có lúa, việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi tại Thoại Sơn diễn ra như một lẽ tự nhiên. Tôi vẫn nhớ từ mô hình nuôi tôm càng xanh thử nghiệm của một hộ nông dân ở xã Phú Thuận với diện tích chừng 4 ha năm 2000 đã thành công và đem lại hiệu quả kinh tế cao. Người dân đã tận dụng mặt ruộng trong mùa nước nổi để chuyển đổi sản xuất từ ba vụ lúa sang nuôi tôm càng xanh xen canh giữa những vụ lúa.
Ðến nay diện tích nuôi tôm của toàn huyện đã lên hơn 530 ha với 238 hộ nuôi, năng suất đạt bình quân từ 1,2 đến 1,8 tấn/ha, thu nhập bình quân từ 70 đến 100 triệu đồng/ha. Từ năm 2005 đến nay, mỗi năm Thoại Sơn đóng góp vào sản lượng chung của An Giang khoảng 650 tấn tôm nguyên liệu. Lúa - tôm đang là mô hình sản xuất bền vững tại huyện Thoại Sơn. Xác nhận hướng đi thích hợp tại vùng đất này, Trung ương đã đầu tư 66 tỷ đồng cho đề án chuyển đổi cơ cấu lúa - tôm của huyện để xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ vùng nuôi tôm 1.500 ha.
Những câu chuyện về cụm, tuyến dân cư, đê bao chống lũ tại vùng trũng tứ giác Long Xuyên khá sống động, là những dấu ấn của công cuộc trị thủy và sống chung với lũ. Từ ngày an cư, lạc nghiệp tại cụm dân cư, hạnh phúc lớn nhất của cư dân vùng lũ là giảm đến mức thấp nhất, thậm chí không có trường hợp trẻ em bị chết vào mùa nước nổi.
Cùng với việc thi công hoàn thành hệ thống đê bao với mặt đê cao hơn đỉnh lũ năm 2000, bà con Thoại Sơn cùng với chính quyền chung tay góp sức hoàn thành bê-tông và nhựa hóa 350 km trên tổng số 900 km đê bao, trong đó có 200 km đường đê có đèn đường nông thôn. Gần 200 cầu bê-tông và cầu sắt treo nối liền hệ thống giao thông nông thôn cũng được hoàn thành. Hơn 44 tuyến đê kênh cấp 2 của huyện Thoại Sơn đã được bê-tông, trẻ em đi học suốt mùa mưa lũ an toàn. Ngoại trừ ngân sách huyện đầu tư xây dựng 300 cống hở dưới chân đê để điều tiết nước phục vụ sản xuất nông nghiệp, còn lại việc làm đường, xây cầu đều dựa trên phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm, với bê-tông, nhựa hóa đường đê thì tỷ lệ đóng góp là Nhà nước 40%, nhân dân 60%; xây cầu thì mức đóng góp là Nhà nước 20%, nhân dân 80%.
Từ năm 2007 đến nay, Thoại Sơn có thêm 35 cầu bê-tông và cầu sắt treo qua kênh, sông với tổng giá trị lên tới 7,2 tỷ đồng, quy mô nhất là cầu sắt Phú Vĩnh kinh phí 1,7 tỷ đồng bắc qua sông Thoại Hà nối Thoại Sơn với huyện Châu Thành với chiều dài hơn 60 m và lòng cầu rộng hơn 3 m. "Mình làm để cho mình hưởng" - các đội thi công từ thiện được thành lập. Ðây là một nét mới tại vùng nông thôn Tây Nam Bộ. Hiện nay xã nào của huyện Thoại Sơn cũng có một đội thi công từ thiện như vậy. Một đội chừng 20-30 người, mỗi khi địa phương có nhu cầu làm đường, xây cầu là các thành viên của đội có mặt, lao động tình nguyện, không lấy tiền công. Chứng thực tại Thoại Sơn, cái gốc nông nghiệp khi đã căn cơ sẽ tạo sinh khí để xây dựng một nông thôn mới thắm đượm tình làng nghĩa xóm.
Hiệu quả của việc phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới ở Thoại Sơn là một minh chứng sống động của "liên kết bốn nhà", của "sống chung với lũ", của tinh thần bám sát và chắt lọc từ bài học thực tiễn, luôn đổi mới và sáng tạo vì lợi ích của người nông dân, là bài học giá trị cần được nhân rộng tại đồng bằng sông Cửu Long.
LƯU QUỐC THẮNG
- Kỹ thuật chăn nuôi gia súc, gia cầm và các loại đặc sản
- Kỹ thuật trồng trọt cây ăn trái, rau màu và các loại cây lương thực, cây công nghiệp khác
Các tin mới:
Các tin cũ: năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009 | 2008 | 2007 | 2006:
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
38
39
40
41
42
43
44
45
46
47
48
49
50
51
52
53
54
55
56
57
58
59
60
61
62
63
64
65
66
67
68
69
70
71
72
73
74
75
76
77
78
79
80
81
82
83
84
85
86
87
88
89
90
91
92
93
94
95
96
97
98
99
100
101
102
103
104
105
106
107
108
109
110
111
112
113
114
115
116
117
118
119
120
121
122
123
124
125
126
127
128
129
130
131
132
133
134
135
136
137
138
139
140
141
142
143
144
145
146
147
148
149
150
151
152
153
154
155
156
157
158
159
160
161
162
163
164
165
166
167
168
169
170
171
172
173
174
175
176
177
178
179
180
181
182
183
184
185
186
187
188
189
190
191
192
193
194
195
196
197
198
199
200
201
202
203
204
205
206
207
208
209
210
211
212
213
214
215
216
217
218
219
220
221
222
223
224
225
226
227
228
229
230
231
232
233
234
235
236
237
238
239
240
241
242
243
244
245
246
247
248
249
250
251
252
253
254
255
256
257
258
259
260
261
262
263
264
265
266
267
268
269
270
271
272
273
274
275
276
277
278
279
280
281
282
283
284
285
286
287
288
289
290
291
292
293
294
295
296
297
298
299
300
301
302
303
304
305
306
307
308
309
310
311
312
313
314
315
316
317
318
319
320
321
322
323
324
325
326
327
328
329
330
331
332
333
334
335
336
337
338
339
340
341
342
343
344
345
346
347
348
349
350
351
352
353
354
355
356
357
358
359
360
361
362
363
364
Kỹ thuật chăn nuôi, trồng trọt, nuôi trồng và chế biến thủy hải sản
Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.