Nguồn tin: Báo Cần Thơ, 26/05/2011
Ngày cập nhật:
27/5/2011
Dù phát triển cả về diện tích lẫn sản lượng, nhưng thời gian qua, giá cả nhiều loại trái cây của vùng ĐBSCL còn khá bấp bênh và khó tiêu thụ. Nguyên nhân chủ yếu do nông dân sản xuất tự phát, manh mún; tiêu thụ phụ thuộc nhiều vào thương lái và chủ yếu ở dạng thô… khiến quá trình phát triển cây ăn trái vùng ĐBSCL chưa bền vững. Chính vì vậy, ngoài việc tính toán lại quy hoạch phát triển các vùng cây ăn trái cây đặc sản, việc sản xuất cây ăn trái vùng ĐBSCL cần nhắm tới nhu cầu của thị trường trong nước và xuất khẩu...
ĐẦU RA GẶP KHÓ DO ĐÂU?
Dù có nhiều tiềm năng và lợi thế phát triển, nhưng trái cây ĐBSCL đang còn gặp khó về đầu ra. Điệp khúc “rộ mùa rớt giá, trúng mùa rớt giá” vẫn thường xuyên xảy ra đối với nhiều loại trái cây ở ĐBSCL.
Các địa phương đang trong quá trình quy hoạch phát triển các vườn cây đặc sản. Trong ảnh: Vườn trái cây đặc sản bưởi da xanh của ông Lê Văn Hoa ở Chợ Lách, Bến Tre. Ảnh: VĂN CÔNG.
Một trong những nguyên nhân trên do khâu chế biến và bảo quản sau thu hoạch trái cây còn yếu kém, phần lớn trái cây được tiêu thụ dưới dạng thô. Mặt khác, nhiều nông dân trồng cây ăn trái chạy theo... phong trào, chưa gắn với nhu cầu thị trường và chưa đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng. Theo thống kê chưa đầy đủ của Viện Cây ăn quả Miền Nam, có khoảng 85% sản lượng trái cây sản xuất trong nước được tiêu thụ nội địa. Nhiều loại trái cây chưa xuất khẩu được nhưng cuộc cạnh tranh với trái cây nhập khẩu ngày càng gay gắt... Vì thế, trái cây trong nước khó tránh khỏi rớt giá khi nguồn cung tăng mạnh. Trường hợp trái mận An Phước là một minh chứng cho việc sản xuất chạy theo phong trào. Chú Phạm Văn Bé Ba, thương lái thu mua trái cây tại xã Hòa Nghĩa, huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre, cho biết: “Những năm gần đây, thấy mận An Phước có giá cao nên nhà vườn ở ĐBSCL đổ xô trồng loại cây này, dẫn đến dư thừa khiến giá mận An Phước rớt thê thảm... Năm 2009, giá mận An Phước có thời điểm lên đến 20.000 đồng/kg. Nhưng năm nay có lúc loại trái cây này chỉ còn 1.500 đồng/kg, trong khi giá mận An Phước phải ở mức trên 5.000 đồng/kg nhà vườn mới có lời”.
Ngoài ra, những bất cập trong mạng lưới thu mua và bán buôn cũng làm trái cây trong vùng rơi vào cảnh bấp bênh về đầu ra. Theo bà Đặng Trúc Lan Vân, Trung tâm Khuyến nông Sở NN&PTNT tỉnh Vĩnh Long, qua khảo sát sơ bộ có tới 80 - 90% nông dân sản xuất rau quả trong tỉnh tiêu thụ sản phẩm qua thương lái. Bán trái cây cho thương lái thường không có hợp đồng bao tiêu sản phẩm nên rất dễ gặp tình trạng rớt giá khi cung vượt cầu. Hơn nữa, thương lái mua hàng để bán lại kiếm lời, luôn muốn mua được với mức giá thấp và bán lại với giá cao nên đôi lúc mua hàng “ép giá”!
QUY HOẠCH LẠI VÙNG SẢN XUẤT
Theo Viện Nghiên cứu Cây ăn quả Miền Nam, ĐBSCL hiện có 360.000 ha cây ăn trái. Các địa phương có diện tích cây ăn trái lớn như: Tiền Giang, Vĩnh Long, Bến Tre... Thời gian qua, nhiều tỉnh, thành ĐBSCL đã có định hướng quy hoạch phát triển vườn cây ăn trái theo hướng tập trung, cân đối theo cung cầu thị trường, ưu tiên phát triển các loại cây chủ lực (cây đặc sản của vùng) cho hiệu quả kinh tế cao...
Theo Sở NN&PTNT tỉnh Tiền Giang, hiện toàn tỉnh có 67.000 ha cây ăn trái. Tiền Giang xác định 7 loại cây chủ lực để phát triển diện tích như: xoài cát Hòa Lộc, bưởi Long Cổ Cò, sầu riêng Ngũ Hiệp, vú sữa Lò Rèn - Vĩnh Kim, khóm Tân Lập, thanh long Chợ Gạo và sơ ri Gò Công. Các loại cây chủ lực này, tỉnh đã xây dựng thương hiệu và kèm theo chỉ dẫn về địa lý, đáp ứng nhu cầu xuất khẩu. Ngoài ra, địa phương đang chú trọng phát triển diện tích cây mãng cầu xiêm ở huyện mới Tân Phú Đông, loại cây trồng đang có đầu ra khá tốt, chủ yếu xuất sang Campuchia. Ngoài ra, Tiền Giang còn triển khai mô hình trồng vú sữa đạt tiêu chuẩn GlobalGap diện tích hơn 6 ha (HTX vú sữa Lò Rèn - Vĩnh Kim), khóm đạt tiêu chuẩn VietGap diện tích khoảng 30 ha (HTX Quyết Thắng)...
Ông Nguyễn Văn Liêm, Phó Giám đốc Sở NN&PTNT tỉnh Vĩnh Long, cho biết: Với diện tích gần 44.800 ha, Vĩnh Long được xem có thế mạnh, tiềm năng phát triển cây ăn trái (diện tích cây ăn trái đứng thứ 2 vùng ĐBSCL, sau Tiền Giang). Theo định hướng phát triển, Vĩnh Long sẽ phát triển diện tích cây ăn trái lên 55.000 ha vào năm 2015, trong đó ưu tiên quy hoạch phát triển 4 loại cây chủ lực cho hiệu quả kinh tế cao của địa phương như: bưởi năm roi, cam sành, nhãn và chôm chôm...”.
TP Cần Thơ hiện có 17.363 ha vườn cây ăn trái, chủ yếu trồng cam, quýt, chanh, bưởi, vú sữa, nhãn, xoài, chôm chôm, sầu riêng, dâu Hạ Châu, chuối và các loại cây ăn quả khác, phân bố tại các vùng ven sông Hậu và sông Cần Thơ. Ông Phạm Văn Quỳnh, Giám đốc Sở NN&PTNT TP Cần Thơ, cho biết: “Nông sản nói chung bị chi phối bởi quy luật cung cầu, “rộ hàng, giá xuống thấp” và khi “hút hàng giá cao”. Do đó, ngành nông nghiệp thành phố định hướng nông dân sản xuất cây ăn trái phải cân đối theo nhu cầu của thị trường, sản xuất theo hướng tập trung nhưng phải đa dạng các giống cây trồng...”. Theo định hướng này, ngành nông nghiệp TP Cần Thơ tiếp tục vận động nông dân khôi phục vườn cây ăn trái theo hướng tập trung, chuyên canh; duy trì diện tích các loại cây như: cam mật, quýt, bưởi khoảng 4.000 - 5.000 ha và đa dạng các loại cây trồng khác như: vú sữa, dâu Hạ Châu, xoài cát Hòa Lộc...
SẢN XUẤT THEO NHU CẦU THỊ TRƯỜNG
Công ty Cổ phần Vinamit (ở Bình Dương) chuyên nghiên cứu, bảo quản, chế biến các loại rau, củ, quả phục vụ xuất khẩu và tiêu thụ nội địa. Hiện Công ty có nhiều sản phẩm trái cây chế biến như: mít sấy, xoài sấy, chuối sấy... Năm 2010, một lần làm việc với một số địa phương vùng ĐBSCL, ông Nguyễn Lâm Viên, Tổng giám đốc Công ty Cổ phần Vinamit, cho rằng: “Hiện nay, trái cây và nhiều loại nông sản Việt Nam đang rất bấp bênh trên thị trường, cả nội địa và xuất khẩu. Đa phần nông dân vẫn sản xuất và tiêu thụ sản phẩm theo tập quán lâu đời, dốc vốn liếng, công sức trong nhiều tháng, nhiều năm để làm ra một loại hàng hóa. Tuy nhiên, việc sản xuất này chưa biết chắc giá cả ra sao, không rõ sẽ bán cho ai...”. Theo ông Viên, nông dân ĐBSCL cũng như Việt Nam sản xuất phải hướng tới hệ thống siêu thị và các thị trường lớn, phục vụ xuất khẩu chứ không hướng tới các chợ nhỏ và “chợ cóc” như xưa nay. Làm như vậy mới giúp việc sản xuất gắn với yêu cầu của thị trường, tránh tình trạng thừa hàng rớt giá và bị thương lái ép giá. Ngoài ra, đó còn là điều kiện để nông dân kịp thời có sự điều chỉnh việc sản xuất một cách phù hợp để sản phẩm làm ra đáp ứng các yêu cầu về số lượng, chất lượng và có giá trị gia tăng ngày càng cao.
Trái cây Việt Nam hiện nay đã được xuất khẩu đi nhiều nước và vùng lãnh thổ như: Trung Quốc, Nhật, Mỹ, Nga, Đài Loan, Hồng Công, Singapore và nhiều nước châu Âu. Danh sách các mặt hàng trái cây xuất khẩu ngày càng nhiều như: thanh long, xoài, chôm chôm, bưởi, vú sữa, dưa hấu... Tuy nhiên, nhìn chung lượng trái cây xuất khẩu vẫn còn khá khiêm tốn so với sản lượng chung, chưa tương xứng với tiềm năng. Sau khi gia nhập WTO, nhiều nước trên thế giới đã chuyển từ việc lấy các rào cản thuế quan sang việc sử dụng các hàng rào kỹ thuật để ngăn hàng nông sản nhập khẩu vào nước họ. Do vậy, muốn đẩy mạnh xuất khẩu, nhất thiết nhà vườn cũng phải kịp thời nâng cao chất lượng trái cây nhằm đáp ứng tốt các yêu cầu của nhà nhập khẩu và vượt qua được các hàng rào kỹ thuật.
VĂN CÔNG - ANH KHOA
- Kỹ thuật chăn nuôi gia súc, gia cầm và các loại đặc sản
- Kỹ thuật trồng trọt cây ăn trái, rau màu và các loại cây lương thực, cây công nghiệp khác
Các tin khác:
Xem các tin năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009:
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
38
39
40
41
42
43
44
45
46
47
48
49
50
51
52
53
54
55
56
57
58
59
60
61
62
63
64
65
66
67
68
69
70
71
72
73
74
75
76
77
78
79
80
81
82
83
84
85
86
87
88
89
90
91
92
93
94
95
96
97
98
99
100
101
102
103
104
105
106
107
108
109
110
111
112
113
114
115
116
117
118
119
120
121
122
123
124
125
126
127
128
129
130
131
132
133
134
135
136
137
138
139
140
141
142
143
144
145
146
147
148
149
150
151
152
153
154
155
156
157
158
159
160
161
162
163
164
165
166
167
168
169
170
171
172
173
174
175
176
177
178
179
180
181
182
183
184
185
186
187
188
189
190
191
192
193
194
195
196
197
198
199
200
201
202
203
204
205
206
207
208
209
210
211
212
213
214
215
216
217
218
219
220
221
222
223
224
225
226
227
228
229
230
231
232
233
234
235
236
237
238
239
240
241
242
243
244
245
246
247
248
249
250
251
252
253
254
255
256
257
258
259
260
261
262
263
264
265
266
267
268
269
270
271
272
273
274
275
276
277
278
279
280
281
282
283
284
285
286
287
288
289
290
291
292
293
294
295
296
297
298
299
300
301
302
303
304
305
306
307
308
309
310
311
312
313
314
315
316
317
318
319
320
321
322
323
324
325
326
327
328
329
330
331
332
333
334
335
336
337
338
339
340
341
342
343
344
345
346
347
348
349
350
351
352
353
354
355
356
357
358
359
360
361
362
363
364
365
366
367
368
369
370
371
372
373
374
375
376
377
378
379
380
381
382
383
384
385
386
387
388
389
390
391
392
393
394
395
396
397
398
399
400
401
402
403
404
405
406
407
408
409
410
411
412
413
414
415
416
417
418
419
420
421
422
423
424
425
426
427
428
Kỹ thuật chăn nuôi, trồng trọt, nuôi trồng và chế biến thủy hải sản
Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.