Nguồn tin: Báo Bắc Giang, 20/07/2011
Ngày cập nhật:
21/7/2011
Trong khi ở các địa phương khác, vải thiều "truyền thống" có giá bán thấp thì ở những vùng vải thiều được sản xuất theo quy trình VietGAP lại giữ giá 18.000 - 20.000 đồng/kg, việc tiêu thụ khá dễ dàng theo con đường xuất khẩu. Đây được xem là cơ hội để huyện Lục Ngạn (Bắc Giang) thực hiện quy hoạch và xây dựng khu vực sản xuất vải thiều chất lượng cao.
Được mùa không mất giá
Người trồng vải thiều ở Lục Ngạn có lẽ hiểu hơn ai hết về vị đắng chát của "quy luật" được mùa… mất giá. Có những năm, vải sai trĩu cây mà nhiều gia đình trồng vải chẳng buồn hái, vì tính ra chi phí "đầu vào" còn lớn hơn số tiền thu được từ "đầu ra" nên người sản xuất không có lãi. Chưa kể công chăm bón và nỗi vất vả khi thu hoạch vải giữa mùa hè. Thế nhưng, vài vụ vải gần đây, khoảng 50% số hộ trồng vải trên địa bàn huyện Lục Ngạn không phải lo vải mất giá, vì sản phẩm họ làm ra đã được nằm trong vùng chỉ dẫn địa lý, nghĩa là có "tên tuổi", bảo đảm có một chỗ đứng vững chắc trên thị trường.
Đến xã Hồng Giang những ngày này, không khí tấp nập ở khắp các gia đình khi vải thiều vào chính vụ. Nhiều thương lái đổ về khu vực này, chấp nhận mua vải với giá 18.000 - 20.000 đồng/kg, họ giải thích, vải thiều ở đây mã đẹp, ăn ngon, đặc biệt là đã có thương hiệu, bảo đảm an toàn nên tiêu thụ dễ dàng trên thị trường nước ngoài. Được biết, xã Hồng Giang có 310 ha vải thiều ở 11 thôn, hầu hết diện tích này đều áp dụng quy trình sản xuất VietGAP. Lợi ích từ phương pháp sản xuất mới đã thấy rõ, cây vải cho quả to, cùi dày, vỏ mỏng, nhẵn, hạt nhỏ, màu quả đỏ đẹp, khi ăn có vị ngọt dịu, thơm và nhất là an toàn đối với người tiêu dùng. Anh Nguyễn Văn Viện, Phó Chủ tịch Hội sản xuất và tiêu thụ vải thiều Lục Ngạn cho biết: Hiện nay, mỗi ngày Lục Ngạn đưa ra thị trường khoảng 3 nghìn tấn vải thiều, tuy nhiên lượng vải chủ yếu được thu gom xuất khẩu sang Trung Quốc, chỉ có một phần rất nhỏ tiêu thụ trong nước. Vụ này, Hội Sản xuất và Tiêu thụ vải thiều Lục Ngạn đang liên kết với các đối tác, tìm kiếm thị trường mới ở Nhật Bản, Hàn Quốc và một số nước châu Âu…
Đóng gói vải thiều xuất khẩu.
Từ năm 2006, huyện Lục Ngạn với sự giúp đỡ của một số cơ quan chuyên môn đã thí điểm áp dụng quy trình VietGAP trên 15 ha vải thiều ở xã Quý Sơn nhằm hình thành vùng chuyên sản xuất vải chất lượng tốt, an toàn, giữ vững thương hiệu để có thể đi vào những thị trường khó tính, qua đó nâng cao giá trị và hiệu quả kinh tế của quả vải thiều Lục Ngạn. Kết quả bước đầu đã khẳng định đây là hướng đi đúng, đáp ứng yêu cầu của thị trường, khắc phục thói quen sản xuất tùy tiện, "mạnh ai người ấy làm" và hình thành phương thức sản xuất hàng hoá, kỹ thuật canh tác an toàn. Đến vụ này, diện tích vải thiều sản xuất theo quy trình VietGAP đã được nâng lên 5.700 ha ở 20 xã, thị trấn.
Để mở rộng diện tích vải "GAP"
Tuy nhiên, tỷ lệ diện tích và số hộ tham gia sản xuất vải theo tiêu chuẩn VietGAP còn chưa đáng kể so với tổng diện tích cây vải của toàn huyện Lục Ngạn là hơn 18.000 ha, gồm 9 loại giống (sản lượng năm nay khoảng 90 nghìn tấn). Một thực tế khác là vải thiều ở những địa phương khác có chất lượng, mẫu mã kém hơn vẫn trà trộn vào vải thiều Lục Ngạn để "mượn" thương hiệu xâm nhập thị trường, ảnh hưởng không nhỏ đến uy tín của vùng chuyên sản xuất vải thiều Lục Ngạn. Một số hộ dân vẫn trồng vải theo kiểu tự phát, thiếu đầu tư, chăm sóc, kỹ thuật hạn chế nên mặc dù được trồng trên đất Lục Ngạn, chất lượng quả vải vẫn thấp.
Khắc phục tình trạng này, huyện Lục Ngạn đã xây dựng vùng chỉ dẫn địa lý vải thiều với tổng diện tích 14.000 ha, đây được xem là “chuẩn" cao nhất để quả vải Lục Ngạn có thể "đường hoàng" đứng trên thị trường trong và ngoài nước. Để làm được như vậy, ngoài yếu tố thổ nhưỡng, tiểu vùng khí hậu… các hộ dân tham gia đều được phổ biến, tập huấn kỹ thuật từ việc lựa chọn giống, trồng, chăm sóc, thu hoạch theo đúng quy trình. Gia đình ông Lê Thế Hơn, một hộ ở xã Hồng Giang tham gia sản xuất vải thiều theo tiêu chuẩn VietGAP cho biết: Muốn thực hiện đúng quy chuẩn thì đất trồng và nước tưới cho vải thiều phải bảo đảm sạch, không bị ô nhiễm, phân bón (cả hữu cơ và vô cơ) đều được xử lý nghiêm ngặt, sử dụng theo chỉ dẫn; các loại thuốc bảo vệ thực vật không được tự ý sử dụng; quá trình thu hoạch và sơ chế tuân thủ theo đúng hướng dẫn. Được biết, hàng năm, huyện Lục Ngạn đều tổ chức lấy mẫu tại các khu vực trồng vải để tiến hành xét nghiệm đều không phát hiện thấy dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, sâu bệnh và đáp ứng được yêu cầu về an toàn vệ sinh thực phẩm.
Trao đổi với ông Chu Văn Báo, Trưởng phòng Nông nghiệp huyện Lục Ngạn về hướng đi này cho cây vải, ông Báo cho biết, huyện có chủ trương tập trung phát triển vùng thâm canh có điều kiện phù hợp trồng vải, không khuyến khích mở rộng diện tích và đối với những diện tích trồng vải khó khăn, hiệu quả và giá trị kinh tế thấp thì hướng dẫn người dân chuyển sang trồng cây khác. Đồng thời thực hiện quản lý và phát triển chỉ dẫn địa lý Lục Ngạn cho sản phẩm vải thiều, qua đó, nâng cao chất lượng và giá trị quả vải, tạo cơ sở để vải thiều trở thành mặt hàng nông sản an toàn, mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Ông La Văn Nam, Phó Chủ tịch UBND huyện Lục Ngạn: Rất cần những nghiên cứu khoa học để nâng cao hiệu quả kinh tế
Lục Ngạn hội tụ nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển cây ăn quả, nhất là vải thiều. Trong những năm qua, địa phương đã nhận được sự giúp đỡ của các cơ quan, tổ chức và cá nhân làm công tác nghiên cứu khoa học. Nhiều thành tựu, kết quả nghiên cứu đã được triển khai ứng dụng thành công trên cây vải. Gần đây nhất là dự án Quản lý và phát triển chỉ dẫn địa lý Lục Ngạn cho sản phẩm vải thiều. Chúng tôi mong tiếp tục được hợp tác với các đơn vị, các nhà khoa học để nghiên cứu tìm ra biện pháp hữu hiệu phòng, chống dịch bệnh trên cây vải; công nghệ thu hoạch và chế biến, bảo quản sản phẩm vải thiều; có giống và kỹ thuật canh tác mới để rải vụ, kéo dài vụ thu hoạch vải, đáp ứng nhu cầu thị trường và nâng cao giá trị, hiệu quả kinh tế từ cây vải.
Ông Phạm Văn Mạnh, Chủ tịch Hội đồng nghiệm thu dự án cấp Nhà nước về "Quản lý và phát triển chỉ dẫn địa lý Lục Ngạn cho sản phẩm vải thiều": Phát huy hiệu quả dự án
Dự án "Quản lý và phát triển chỉ dẫn địa lý Lục Ngạn cho sản phẩm vải thiều" cùng với quy trình sản xuất vải thiều theo tiêu chuẩn VietGAP đã đem lại nhiều lợi ích to lớn cho người sản xuất. Không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế, các công trình, dự án còn có tác động không nhỏ đối với xã hội, công tác quản lý nhà nước, việc bảo vệ môi trường… Vấn đề đặt ra ở đây là địa phương và các ngành chức năng cần tiếp tục tuyên truyền, vận động người dân tham gia một cách tự giác, có tinh thần trách nhiệm. Hình thành phương thức sản xuất nông sản nói chung và vải thiều nói riêng an toàn khoa học, có giá trị cao, phát huy đầy đủ hiệu quả của dự án mang lại.
Ông Bùi Văn Hào, thôn Hiệp Tân, xã Hồng Giang (Lục Ngạn): Sản xuất vải "sạch" để giữ vững thương hiệu
Gia đình tôi trồng vải cách đây đã hơn 20 năm, hiện nay diện tích vườn vải của gia đình tôi khoảng 2 mẫu. Những năm trước, gia đình tôi cũng như nhiều người ở địa phương trồng vải chủ yếu do tự phát, không có kỹ thuật, chỉ dựa vào kinh nghiệm lâu năm và học hỏi những người xung quanh. Năm 2008, khi huyện và xã tuyên truyền về sản xuất vải thiều theo tiêu chuẩn VietGAP, gia đình tôi tự nguyện đăng ký tham gia, chúng tôi được phổ biến về kỹ thuật trồng, chăm sóc và thu hoạch vải. Hiệu quả thấy rõ ngay từ vụ đầu, vải đậu quả nhiều hơn, ít bị sâu bệnh, chất lượng thơm ngon, mẫu mã đẹp, tiêu thụ dễ dàng với giá cao; quan trọng hơn là giảm được việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật tràn lan, không theo quy định, quả vải vì vậy cũng an toàn hơn.
Minh Khuê
- Kỹ thuật chăn nuôi gia súc, gia cầm và các loại đặc sản
- Kỹ thuật trồng trọt cây ăn trái, rau màu và các loại cây lương thực, cây công nghiệp khác
Các tin khác:
Xem các tin năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009:
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
38
39
40
41
42
43
44
45
46
47
48
49
50
51
52
53
54
55
56
57
58
59
60
61
62
63
64
65
66
67
68
69
70
71
72
73
74
75
76
77
78
79
80
81
82
83
84
85
86
87
88
89
90
91
92
93
94
95
96
97
98
99
100
101
102
103
104
105
106
107
108
109
110
111
112
113
114
115
116
117
118
119
120
121
122
123
124
125
126
127
128
129
130
131
132
133
134
135
136
137
138
139
140
141
142
143
144
145
146
147
148
149
150
151
152
153
154
155
156
157
158
159
160
161
162
163
164
165
166
167
168
169
170
171
172
173
174
175
176
177
178
179
180
181
182
183
184
185
186
187
188
189
190
191
192
193
194
195
196
197
198
199
200
201
202
203
204
205
206
207
208
209
210
211
212
213
214
215
216
217
218
219
220
221
222
223
224
225
226
227
228
229
230
231
232
233
234
235
236
237
238
239
240
241
242
243
244
245
246
247
248
249
250
251
252
253
254
255
256
257
258
259
260
261
262
263
264
265
266
267
268
269
270
271
272
273
274
275
276
277
278
279
280
281
282
283
284
285
286
287
288
289
290
291
292
293
294
295
296
297
298
299
300
301
302
303
304
305
306
307
308
309
310
311
312
313
314
315
316
317
318
319
320
321
322
323
324
325
326
327
328
329
330
331
332
333
334
335
336
337
338
339
340
341
342
343
344
345
346
347
348
349
350
351
352
353
354
355
356
357
358
359
360
361
362
363
364
365
366
367
368
369
370
371
372
373
374
375
376
377
378
379
380
381
382
383
384
385
386
387
388
389
390
391
392
393
394
395
396
397
398
399
400
401
402
403
404
405
406
407
408
409
410
411
412
413
414
415
416
417
418
419
420
421
422
423
424
425
426
427
428
Kỹ thuật chăn nuôi, trồng trọt, nuôi trồng và chế biến thủy hải sản
Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.