Nguồn tin: Tiền Giang, 14/07/2012
Ngày cập nhật:
16/7/2012
Lần đầu tiên chuỗi giá trị trái thanh long được phân tích một cách cụ thể. Tuy còn nhiều bàn cãi nhưng kết quả phân tích của nhóm nghiên cứu cũng chỉ ra nhiều điểm nhấn quan trọng trong chuỗi giá trị trái thanh long. Đây là kết quả ban đầu do chương trình B-WTO tài trợ nằm trong dự án "Hỗ trợ xuất khẩu trái cây tại các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long - mô hình thí điểm tại tỉnh Tiền Giang" do Thường trực Ban Chỉ đạo Hội nhập kinh tế quốc tế của tỉnh (Sở Công thương) phối hợp với Công ty T&C thực hiện.
Còn nhiều cơ hội cho trái thanh long.
Nhiều tầng nấc
Nhóm nghiên cứu đã phân tích, đánh giá tại vườn thanh long Chợ Gạo và đưa ra kết quả về chuỗi giá trị trái thanh long từ khâu sản xuất cho đến tiêu dùng và xuất khẩu. Theo ông Trần Ngọc Thắng, đại diện nhóm tư vấn, Công ty T&C, hiện nay có hai kênh chủ yếu trong chuỗi giá trị trái thanh long là kênh xuất khẩu và kênh tiêu thụ trong nước. Nhóm nghiên cứu đã tập trung sâu hơn vào tìm hiểu chuỗi giá trị phục vụ xuất khẩu do đây là kênh tiêu thụ lớn đối với trái thanh long (chiếm khoảng 80% lượng thanh long).
Nghiên cứu hệ thống cung cấp thanh long xuất khẩu ở Chợ Gạo cho thấy, kênh tiêu thụ chủ yếu là từ nhà vườn, đến thương lái, sau đó là chủ vựa và đến công ty xuất khẩu ở tỉnh và công ty xuất khẩu ở TP. Hồ Chí Minh. Nhìn chung, đến 90% lượng thanh long từ nhà vườn được cung cấp trực tiếp cho các thương lái, tuy nhiên, cũng có tỷ lệ nhỏ cung cấp trực tiếp cho những chủ vựa (7%) và công ty xuất khẩu (2,5%). Từ thương lái có sự phân phối đều hơn tới công ty xuất khẩu và các vựa trái cây. Một số thương lái cung cấp cho các chủ vựa (chiếm gần 50% sản lượng thanh long) nhưng cũng có khoảng 36% lượng thanh long được sản xuất ra bán cho các công ty xuất khẩu tại Tiền Giang, Long An và công ty xuất khẩu tại TP. Hồ Chí Minh.
Theo nhóm nghiên cứu, dù có sự phát triển mạnh về sản xuất trong những năm gần đây nhưng sự liên kết giữa các tác nhân trong chuỗi giá trị trái thanh long chưa mạnh. Nhìn chung, sự gắn kết giữa công ty xuất khẩu và người sản xuất còn rất yếu. Các công ty xuất khẩu chưa xây dựng những vùng nguyên liệu cho mình mà chủ yếu thu mua thông qua trung gian. Theo kết quả khảo sát, có 55% số nhà vườn có ký hợp đồng với thương lái và chủ vựa nhưng chủ yếu là hợp đồng miệng và có thời gian hiệu lực trong thời gian ngắn. Trước khi thanh long thu hoạch khoảng 5 - 7 ngày, thương lái đi qua và đàm phán giá cả sau đó đặt cọc tiền mua. Do tính pháp lý không chặt chẽ nên có nhiều khi nhà vườn tự phá vỡ hợp đồng và có nhiều khi người mua tự phá vỡ hợp đồng nhưng không có bên nào đứng ra giải quyết. Gần đây với sự phát triển thanh long ở Chợ Gạo cũng có khá nhiều thương lái hơn, kể cả những thương lái ngoài tỉnh. Sự phát triển này tác động tích cực với nhà vườn, có nhiều lựa chọn hơn. Tuy nhiên, việc làm ăn với những thương lái mới có thể sẽ mang lại những rủi ro hơn. Không ít hộ đã bị những thương lái nợ kéo dài.
Tương tự liên kết giữa hộ và thương lái, liên kết giữa chủ vựa và các công ty xuất khẩu trên cũng dựa trên từng lô hàng, hợp đồng phần nhiều chủ yếu là hợp đồng miệng, thỏa thuận trên điện thoại. Sau khi đã thống nhất về lượng và giá, các công ty sẽ chuyển tiền ứng trước cho chủ vựa và thương lái sau đó họ sẽ chuyển hàng lên và thanh toán sau. Trái lại, trong liên kết theo chiều dọc, liên kết giữa các công ty xuất khẩu và nhà nhập khẩu có những ràng buộc khá chặt chẽ hơn về mặt giấy tờ. Điều này cũng dễ hiểu vì các nhà nhập khẩu từ các nước khác đến và sự rủi ro sẽ là rất cao nếu không cẩn thận. Nhưng trên thực tế, một số công ty của Việt Nam đã bị doanh nghiệp nước ngoài không trả tiền sau khi đã lấy hàng. Việc này xảy ra khá thường xuyên với cả các doanh nghiệp xuất khẩu thanh long ở tỉnh Bình Thuận và nó đã làm nhiều chủ vựa phá sản trong thời gian vừa qua.
Cần có chiến lược rõ ràng hơn
Trái thanh long nói chung và thanh long Chợ Gạo nói riêng vẫn còn nhiều lợi thế. Hơn nữa, trong quy hoạch phát triển của tỉnh, cây thanh long đang được tập trung theo hướng chuyên canh ở huyện Chợ Gạo. Do vậy, một chiến lược rõ ràng hơn về cây thanh long là điều cần thiết. Theo các chuyên gia, về mặt định hướng chiến lược, phải có sự chọn lọc trong việc kêu gọi các doanh nghiệp tham gia đầu tư kinh doanh thanh long tại tỉnh theo các tiêu chí nhất định. Các doanh nghiệp mà tỉnh cần là các doanh nghiệp đầu tàu và uy tín như phải có lợi thế về thị trường, đang xuất khẩu chính ngạch thành công thanh long vào các thị trường khó tính như Mỹ, Nhật, Hàn Quốc và châu Âu; có lợi thế mạnh về nguồn vốn, công nghệ để chủ động kinh doanh và có khả năng đầu tư lại cho các hộ trồng; hoạt động chuyên nghiệp, được các thị trường quốc tế công nhận, đặc biệt là có quy trình nội bộ tốt để kiểm soát chất lượng sản phẩm (từ khâu đầu vào, giống, chăm sóc, thu hoạch, bảo quản, vận chuyển và xuất khẩu) và có đội ngũ cán bộ có thể đào tạo và hướng dẫn người trồng và các tác nhân khác để tuân thủ quy trình này.
Song song đó, phải tăng cường hỗ trợ kỹ thuật nâng cao năng lực cho nông dân và doanh nghiệp để đăng ký và áp dụng triệt để quy trình sản xuất thanh long chất lượng cao như VietGAP/GlobalGAP, áp dụng phân bón hữu cơ và giống mới được thị trường ưa chuộng. Nếu so với Bình Thuận, tỉnh đứng đầu về phát triển thanh long của cả nước, tốc độ áp dụng VietGAP của Tiền Giang chậm hơn rất nhiều. Sau 2 năm triển khai chương trình sản xuất thanh long an toàn theo hướng VietGAP, đến năm 2011 diện tích sản xuất thanh long VietGAP tại Bình Thuận đạt được gần 3.000 ha, chiếm tỷ lệ 22,3% diện tích trồng thanh long cả tỉnh, với hơn 3.675 hộ tham gia và hình thành được 138 tổ hợp tác. Bên cạnh đó, có một số công ty bên Bình Thuận đã áp dụng tiêu chuẩn GAP với tổng diện tích trên 150 ha.
Bên cạnh việc áp dụng VietGAP, việc thử nghiệm áp dụng phân bón hữu cơ - phát triển thanh long hữu cơ và áp dụng các giống mới chất lượng cao (như thanh long ruột đỏ, ruột vàng và tím) được thị trường ưa chuộng để đa dạng cơ cấu giống cũng sẽ được khuyến khích. Tuy nhiên, để tránh tình trạng sản xuất không có thị trường cũng như đảm bảo kinh doanh có lãi, các giải pháp sẽ phải dựa theo thị trường, trong đó sự hợp tác giữa các công ty xuất khẩu và người trồng để thử nghiệm và tiêu thụ là việc sẽ được khuyến khích phát triển. Đây sẽ là cách làm giúp đảm bảo cơ cấu giống luôn gắn liền với thị hiếu người tiêu dùng trong nước và tại các thị trường xuất khẩu khác nhau...
Phân loại tiêu chuẩn trái không thống nhất
Việc phân loại tiêu chuẩn trái thanh long cũng không thống nhất nhưng chủ yếu là dựa trên trọng lượng trái, tai và độ bóng đẹp đều của trái thanh long. Có nhiều thương lái chia ra làm 3 loại: Loại 1 từ 400 - 600g/trái, loại 2 từ 300 - 400g và loại 3 dưới 300g. Một số thương lái khác lại chia theo hai loại chính: Loại 1 trên 450g và loại 2 từ 300 - 450g. Tuy nhiên, có nhiều hộ lại chia ra làm hai loại: Loại 1 trên 300 g/trái; loại 2 dưới 300 g/trái. Việc phân chia cũng tùy theo yêu cầu của các công ty xuất khẩu hay nhà nhập khẩu. Như thị trường Trung Quốc, Mỹ thích những trái to, trái càng to thì giá xuất khẩu càng cao. Đây chính là một vấn đề đối với hộ sản xuất cũng như thương lái thu mua. Vì muốn trái to nhà vườn sẽ tích cực sử dụng thuốc kích thích tăng trưởng. Hiện nay theo khảo sát của nhóm nghiên cứu, tỷ lệ thanh long đạt tiêu chuẩn trên 300g là chiếm tỷ trọng rất lớn, trên 70%.
Hiệu quả cao
Nghiên cứu hiệu quả sản xuất thanh long của nhà vườn năm 2011 cho thấy, chi phí vụ thuận là khá thấp, chỉ khoảng 2.500 - 2.700 đồng/kg. Tuy nhiên, chi phí vụ nghịch lại cao hơn rất nhiều so với vụ thuận (7.000 - 7.300 đồng/kg). Với mức chi phí và giá bán bình quân như năm 2011, trung bình mỗi năm nếu các nhà vườn chỉ xông đèn một lần sẽ có lợi nhuận bình quân khoảng 110 triệu/ha. Nhưng hiện nay phần lớn các hộ xông đèn hai lần nên lợi nhuận bình quân đạt khoảng 140 - 150 triệu đồng/ha. Đây là một mức lợi nhuận khá cao. Nghiên cứu chi phí và lợi nhuận năm 2011 với kênh xuất khẩu sang Trung Quốc cho thấy, nếu tính trên một đơn vị xuất khẩu (1 kg), lợi nhuận mà nhà vườn chiếm được là lớn nhất, chiếm khoảng 60%; tiếp theo là các nhà xuất khẩu với trên 20%.
Còn nhiều cơ hội
TS. Lương Ngọc Trung Lập, Trưởng Bộ môn Nghiên cứu thị trường, Viện Nghiên cứu cây ăn quả miền Nam cho biết, tốc độ tăng trưởng của trái thanh long xuất khẩu hiện nay trên 100%. Hiện nay, ngoài Trung Quốc, Indonesia là thị trường lớn thứ 2 của Việt Nam về xuất khẩu trái thanh long và đang tăng trưởng tốt. Tuy nhiên, đều cần lưu ý là Việt Nam không thể muốn xuất khẩu thanh long vào thị trường nào cũng được mà phải tùy thuộc điều kiện của từng thị trường, chẳng hạn như Mỹ trái thanh long phải chiếu xạ, Nhật phải xông hơi nước nóng.
Còn theo kết quả của nhóm nghiên cứu, có đến 80% sản lượng thanh long của Việt Nam được xuất khẩu. Năm 2010, thanh long đã mang về cho Việt Nam 58 triệu USD, tăng 70,9% so với năm 2009 và năm 2011 đạt hơn 86 triệu USD. Thanh long hiện đang là mặt hàng mang lại kim ngạch xuất khẩu cao nhất trong tất cả các mặt hàng rau quả tươi của Việt Nam. Việt Nam cũng là nước xuất khẩu thanh long số 1 trên thế giới. Trái thanh long Việt Nam đã có mặt ở 40 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó có cả các thị trường được coi là khó tính như Mỹ, châu Âu, Nhật Bản...
Thế Anh
- Kỹ thuật chăn nuôi gia súc, gia cầm và các loại đặc sản
- Kỹ thuật trồng trọt cây ăn trái, rau màu và các loại cây lương thực, cây công nghiệp khác
Các tin khác:
Xem các tin năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009:
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
38
39
40
41
42
43
44
45
46
47
48
49
50
51
52
53
54
55
56
57
58
59
60
61
62
63
64
65
66
67
68
69
70
71
72
73
74
75
76
77
78
79
80
81
82
83
84
85
86
87
88
89
90
91
92
93
94
95
96
97
98
99
100
101
102
103
104
105
106
107
108
109
110
111
112
113
114
115
116
117
118
119
120
121
122
123
124
125
126
127
128
129
130
131
132
133
134
135
136
137
138
139
140
141
142
143
144
145
146
147
148
149
150
151
152
153
154
155
156
157
158
159
160
161
162
163
164
165
166
167
168
169
170
171
172
173
174
175
176
177
178
179
180
181
182
183
184
185
186
187
188
189
190
191
192
193
194
195
196
197
198
199
200
201
202
203
204
205
206
207
208
209
210
211
212
213
214
215
216
217
218
219
220
221
222
223
224
225
226
227
228
229
230
231
232
233
234
235
236
237
238
239
240
241
242
243
244
245
246
247
248
249
250
251
252
253
254
255
256
257
258
259
260
261
262
263
264
265
266
267
268
269
270
271
272
273
274
275
276
277
278
279
280
281
282
283
284
285
286
287
288
289
290
291
292
293
294
295
296
297
298
299
300
301
302
303
304
305
306
307
308
309
310
311
312
313
314
315
316
317
318
319
320
321
322
323
324
325
326
327
328
329
330
331
332
333
334
335
336
337
338
339
340
341
342
343
344
345
346
347
348
349
350
351
352
353
354
355
356
357
358
359
360
361
362
363
364
365
366
367
368
369
370
371
372
373
374
375
376
377
378
379
380
381
382
383
384
385
386
387
388
389
390
391
392
393
394
395
396
397
398
399
400
401
402
403
404
405
406
407
408
409
410
411
412
413
414
415
416
417
418
419
420
421
422
423
424
425
426
427
428
Kỹ thuật chăn nuôi, trồng trọt, nuôi trồng và chế biến thủy hải sản
Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.