Nguồn tin: Nhân Dân, 04/07/2009
Ngày cập nhật:
6/7/2009
Cơn bão số 6 - tháng 9-2008, với diễn biến phức tạp, bất ngờ đổ bộ vào các tỉnh phía bắc, làm cho nhiều địa phương bị tàn phá nặng nề, trong đó có tỉnh miền núi Bắc Giang, mà Lục Ngạn là huyện bị thiệt hại nặng nhất. Tôi về Lục Ngạn sau gần một năm bị "cơn hồng thủy" tàn phá hoang tàn, nhưng giờ đây hầu như không còn thấy dấu vết...
Những ngày này, niềm vui cùng nụ cười tươi sáng đang hiển hiện rất rõ trên gương mặt bà con các dân tộc ở Lục Ngạn khi vào vụ mùa thu hoạch vải thiều. Và cũng ngày này, Bí thư Huyện ủy Giáp Văn Trí kể với tôi: "Bà con ở huyện Lục Ngạn bắt tay khắc phục hậu quả cơn lũ thế kỷ rất nhanh. Gần một năm trước, 29 xã và một thị trấn của Lục Ngạn chìm trong nước lũ cuồn cuộn, sôi réo ngày đêm. Có xã bị chia cắt và cô lập hoàn toàn, phải tiếp tế bằng máy bay lên thẳng. Có nơi ca-nô, xuồng máy của lực lượng quân đội không vào được. Các cụ tám, chín mươi tuổi bảo rằng từ bé chưa hề gặp bão lũ kinh hãi như thế bao giờ. Hầu hết lúa, hoa màu, vườn cây ăn quả bị ngập, tàn phá, cuốn trôi, làm ba người bị sập nhà; hàng vạn trâu, bò, lợn, gia cầm và hơn 200 ngôi nhà bị cuốn trôi, tổng thiệt hại lên tới hơn 500 tỷ đồng; vườn cây ăn quả (chủ yếu là vải thiều) bị tàn phá, công trình thủy lợi, đường, trường học, trạm y tế, mạng lưới điện... bị hư hại nặng".
Chúng tôi đến một số vườn vải thiều, có vườn rặt một mầu xanh ngăn ngắt, không thấy bóng dáng quả nào, như thế là mất trắng. Những vườn trên nương, trên đồi cao thì được mùa, quả sai lúc lỉu. Vải thiều là cây "xóa đói, giảm nghèo" của Lục Ngạn, với diện tích trồng 19 nghìn ha, sản lượng hằng năm khoảng hơn 100 nghìn tấn quả, nổi tiếng về chất lượng. Ðó là yếu tố giúp Lục Ngạn phát triển nhanh, mạnh và là thành phần quan trọng để toàn huyện cơ bản xóa được đói nghèo. Vào vụ thu hoạch, một vùng đồi núi, ruộng nương, vườn tược Lục Ngạn tràn ngập một mầu đỏ tươi, khắp nơi náo nức trong không khí của niềm vui được mùa và no ấm. Thương lái bốn phương với ô-tô to nhỏ đủ loại về lấy hàng nhộn nhịp ngày đêm. Ðó là kết quả của sự nỗ lực, cần cù, sáng tạo của bà con, từ một huyện nghèo đói nhất tỉnh vươn lên. Thế rồi sau cơn lũ, hiện tượng tái nghèo lại xuất hiện với 14,2% số hộ, đặc biệt là bà con các dân tộc ở 12 xã vùng cao, vùng sâu, vùng xa.
Anh Trí đưa chúng tôi đến xã Nam Dương. Trong đợt lũ, xã này bị nặng nhất và cũng là xã khắc phục hậu quả tàn phá của bão lũ nhanh nhất huyện. Từ trung tâm huyện lỵ đi khoảng 5 km, qua cầu sông Lục Nam là đến trung tâm xã. Cầu mới được làm cách đây mươi năm. Xưa, không có cầu, Nam Dương như bị cô lập, giao lưu hàng hóa khó khăn, là xã nghèo nhất huyện, nhất tỉnh. Nay thì khác xa rồi. Nhờ có cầu mà giao thông thuận lợi, sản xuất có điều kiện phát triển, rồi vai trò của các làng nghề được khẳng định, đã làm cho Nam Dương nhanh chóng trở thành xã giàu nhất huyện. Vậy rồi năm ngoái, cơn bão lũ ập đến bất ngờ.
Bí thư Ðảng ủy xã Trịnh Văn Sinh - người dân tộc Sán Dìu, cho biết: Nam Dương có diện tích tự nhiên 2.967 ha, dân số 1.800 hộ với 8.260 nhân khẩu, cả xã có sáu dân tộc anh em Kinh, Tày, Nùng, Sán Chí, Sán Dìu, Hoa đã nhiều đời nay chung sống hòa thuận, đoàn kết, đùm bọc nhau. Toàn xã có chín thôn bản với 147 đảng viên, sinh hoạt trong 10 chi bộ; các tổ chức, đoàn thể như Mặt trận Tổ quốc, Ðoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh... hoạt động sôi nổi, có hiệu quả. Xã có 70% số hộ làm nông nghiệp và trồng rừng; 30% số hộ làm nghề thủ công nghiệp - là nghề làm mì Chũ nổi tiếng. Diện tích trồng lúa và hoa màu của xã là 500 ha, trong đó 355 ha trồng lúa, diện tích còn lại trồng hoa màu như lạc, ngô, các loại đậu. Thế mạnh của xã là chăn nuôi, trồng rừng cây ăn quả, và nghề làm mì. Trận lụt thế kỷ làm ngập trắng 600 ha cây ăn quả (trong đó có 500 ha cây vải thiều), cuốn hơn 100 con trâu, bò, hàng vạn con lợn.
Từ sau trận bão lũ đến nay, bà con nhanh chóng phục hồi, chăm sóc lại toàn bộ diện tích vải thiều, trồng mới 60 ha rừng phòng hộ, 200 ha rừng tái sinh. Ðặc biệt là phục hồi rừng dẻ đặc sản đã bị tàn phá những năm trước, nay trồng lại được 300 ha. Hạt dẻ ở đây thơm, ngon, có giá trị kinh tế cao. Chính quyền xã và bà con có kế hoạch phát triển loại cây quý này, xây dựng thành đặc sản có thương hiệu như mì Chũ. Trong cơn lũ năm trước, làng Thủ Dương ngập sâu 2-3m, ngấn nước vẫn còn hằn dấu tích trên mỗi thân cây, mỗi tường nhà. Lò tráng mì (mỗi lò trị giá 60 triệu đồng) của các gia đình đều bị ngập và hỏng, 205 tấn gạo cùng toàn bộ số mì đã sản xuất bị cuốn trôi. Sau bão, nghề làm mì từ gạo được phục hồi, phát triển nhanh, toàn xã có hơn 400 hộ, riêng làng Thủ Dương có 264 hộ, mỗi ngày sản xuất hơn 20 tấn. Mì Chũ chính gốc là ở làng Thủ Dương. Mì được tiêu thụ ở nhiều nơi, cả trong và ngoài nước. Mì làm từ gạo ngon trồng ở xã, sử dụng nước giếng trong mát, ngọt lịm. Mì ở đây không dùng thuốc tẩy và phụ gia nên rất an toàn. Sợi mì dẻo dai, vị thơm ngon. Hằng năm, nghề làm mì đem tới thu nhập từ 18 đến 20 tỷ đồng, bằng tiền thu nhập vải thiều. Ở làng Thủ Dương, đường làng và đường ngõ xóm đều đổ bê-tông sạch đẹp, nhà cao tầng mọc san sát. 100% số gia đình có máy thu hình, tủ lạnh, xe máy, con cái học hành tấn tới, nhiều nhà có con học đại học, cao đẳng.
Ðến Thủ Dương, tôi lại được biết chuyện về "cây vải tổ" Lục Ngạn ở ngay làng Thủ Dương do cụ Nguyễn Ðức Trụ (tên thường gọi là Chén - tên con trai đầu) trồng. Năm nay cụ 90 tuổi nhưng vẫn khỏe mạnh, minh mẫn. Năm 1953, cụ được người bạn quê Thanh Hà (Hải Dương) lên Chũ dạy học đã đem theo và tặng cụ ba cành vải "chiết". Quý tình cảm của bạn, cụ trồng cây trong vườn, chăm sóc chu đáo. Một năm sau, hai cây lên tươi tốt, một cây cằn cỗi. Một lần bạn về chơi, góp ý nên bỏ cây cỗi, tập trung chăm sóc hai cây, tượng trưng cho tình bạn của hai người. Ba năm sau, cây ra hoa kết trái và trở thành cây ăn quả quý hiếm của gia đình cụ Chén. Ðến năm 1960, có phong trào trồng cây gây rừng và cây ăn quả, mọi người nghĩ đến cây vải của cụ, bà con đề nghị cụ chiết cành và phổ biến cách trồng, chăm sóc. Không ngờ đất Lục Ngạn lại phù hợp cây vải, vì thế cây phát triển rất nhanh, thành cây "xóa đói, giảm nghèo" của Lục Ngạn. Hiện nay, cây vải của cụ Chén đã thành cây cổ thụ cao to, nhưng hằng năm vẫn nặng trĩu quả to và ngon...
Ðoạn đường từ trung tâm xã Nam Dương lên đỉnh núi Am Vãi cao hơn 400 m so với mặt nước biển, núi nằm trong dải Yên Tử, đó là "nóc nhà" của Lục Ngạn. Hơn chục cây số mà ô-tô phải đi mấy tiếng đồng hồ. Ðường xấu lại vòng vèo, khúc khuỷu, lên dốc xuống đèo, hai bên là thung lũng sâu thăm thẳm, kế tiếp là đồi, rừng với một mầu xanh của keo, thông và dẻ. Ngồi trên xe, anh Giáp Văn Trí giới thiệu với tôi từng cánh rừng rộng bao nhiêu ha, của chủ nào, trồng cây gì, tiềm năng năm mười năm nữa sẽ ra sao. Ðường càng lên cao càng xấu, dốc đá cheo leo, trên xe có người ví như đang trên đường đèo Pha Ðin lên Ðiện Biên ngày trước, có người lại so sánh với đường Trường Sơn trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ. Anh Trí cười: "Ðường đi thế này có thấm vào đâu, ô-tô, xe máy phóng bay bay lên đỉnh Am Vãi chẳng khó khăn mấy. Vài năm trước lên đây phải đi bộ, quá nửa ngày mới tới". Anh Hải lái xe góp chuyện: "Anh Trí từng là lính lái xe Trường Sơn từ năm 1971, từng vào cả thành Quảng Trị trong đợt 81 ngày đêm máu lửa đấy". Thì ra thế, tôi càng hiểu thêm về anh, người Bí thư Huyện ủy và là cựu chiến binh lái xe Trường Sơn quả cảm năm nào.
Trên đỉnh Am Vãi, không khí mát mẻ trong lành. Ðứng ở đây nhìn được toàn cảnh huyện Lục Ngạn với đường phố, làng bản, đồi nương, sông suối đẹp như tranh sơn thủy. Sau gần một năm, nhìn lại các thành quả mới thấy sức vươn lên để khắc phục khó khăn sau lũ của nhân dân các dân tộc ở Nam Dương thật to lớn. Về giao thông, đã sửa chữa các tuyến đường hư hỏng, làm mới 8 km đường bê-tông; các công trình điện, trạm y tế, trường học đều xây dựng mới, khang trang và đạt chuẩn quốc gia. Trường mầm non với tám phòng học bảo đảm cho 400 cháu học tập, trường THCS khang trang với hơn 1.800 học sinh và trường tiểu học xây dựng kiên cố vừa mới hoàn thành, đủ lớp cho 1.700 học sinh. Xã cũng đang tập trung cho các công trình thủy lợi, sửa chữa hệ thống hồ nước, mương máng bị hư hại, triển khai các công trình mới như cụm bốn hồ, gồm: hồ Khe Sàng, hồ Ðèo Gia (Ruồng), hồ Khuôn Vố và hồ Hàm Rồng, với kinh phí hơn 100 tỷ đồng. Hồ Hàm Rồng sẽ hoàn thành vào cuối quý I-2009 có diện tích 30 ha, bảo đảm tưới cho 260 ha lúa, hoa màu, kinh phí 23 tỷ đồng.
Ðứng trên mặt đập, nhìn nước hồ mênh mông, xa tít tắp là ruộng, nương, rừng núi trập trùng, Bí thư Huyện ủy kể với tôi: "Lục Ngạn vừa thiếu lại vừa thừa nước tưới tiêu. Mùa mưa lũ, nước ngập tràn, sau lũ là mùa khô, là hạn hán vì thiếu nước. Do đặc điểm ấy mà Lục Ngạn có rất nhiều ao hồ chứa nước to nhỏ, có xã có hơn 40 ao hồ. Trước đây, do manh mún, không quy hoạch tổng thể nên không lưu trữ và điều tiết được nước, không đủ nước phục vụ sản xuất. Mấy năm nay, huyện đã bắt đầu có cái nhìn tổng thể, quy hoạch lại hệ thống mương máng và mạng lưới hồ ao cho hợp lý, khoa học, có như vậy mới làm chủ, yên tâm làm giàu được". Hy vọng một ngày không xa, bộ mặt kinh tế - xã hội - văn hóa của Lục Ngạn sẽ ngày càng phát triển, để rồi Am Vãi sẽ là một khu du lịch hấp dẫn.
ÐẶNG TIẾN HUY
- Kỹ thuật chăn nuôi gia súc, gia cầm và các loại đặc sản
- Kỹ thuật trồng trọt cây ăn trái, rau màu và các loại cây lương thực, cây công nghiệp khác
Các tin khác:
Xem các tin năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009:
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
38
39
40
41
42
43
44
45
46
47
48
49
50
51
52
53
54
55
56
57
58
59
60
61
62
63
64
65
66
67
68
69
70
71
72
73
74
75
76
77
78
79
80
81
82
83
84
85
86
87
88
89
90
91
92
93
94
95
96
97
98
99
100
101
102
103
104
105
106
107
108
109
110
111
112
113
114
115
116
117
118
119
120
121
122
123
124
125
126
127
128
129
130
131
132
133
134
135
136
137
138
139
140
141
142
143
144
145
146
147
148
149
150
151
152
153
154
155
156
157
158
159
160
161
162
163
164
165
166
167
168
169
170
171
172
173
174
175
176
177
178
179
180
181
182
183
184
185
186
187
188
189
190
191
192
193
194
195
196
197
198
199
200
201
202
203
204
205
206
207
208
209
210
211
212
213
214
215
216
217
218
219
220
221
222
223
224
225
226
227
228
229
230
231
232
233
234
235
236
237
238
239
240
241
242
243
244
245
246
247
248
249
250
251
252
253
254
255
256
257
258
259
260
261
262
263
264
265
266
267
268
269
270
271
272
273
274
275
276
277
278
279
280
281
282
283
284
285
286
287
288
289
290
291
292
293
294
295
296
297
298
299
300
301
302
303
304
305
306
307
308
309
310
311
312
313
314
315
316
317
318
319
320
321
322
323
324
325
326
327
328
329
330
331
332
333
334
335
336
337
338
339
340
341
342
343
344
345
346
347
348
349
350
351
352
353
354
355
356
357
358
359
360
361
362
363
364
365
366
367
368
369
370
371
372
373
374
375
376
377
378
379
380
381
382
383
384
385
386
387
388
389
390
391
392
393
394
395
396
397
398
399
400
401
402
403
404
405
406
407
408
409
410
411
412
413
414
415
416
417
418
419
420
421
422
423
424
425
426
427
428
Kỹ thuật chăn nuôi, trồng trọt, nuôi trồng và chế biến thủy hải sản
Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.