Nguồn tin: Báo Đak Lak, 05/09/2012
Ngày cập nhật:
6/9/2012
Tháng 7-2012, Công ty TNHH Trịnh Mười ở số 137 Nguyễn Thái Bình (TP.Buôn Ma Thuột) bất ngờ nhận được đề nghị xuất khẩu bơ sáp sang Nhật với số lượng lớn, ổn định, và chất lượng cũng phải ổn định. Đề nghị này xuất phát từ dịp một số nhà nhập khẩu và phân phối trái cây có tiếng tăm ở Nhật Bản đến Việt Nam vừa đi du lịch, vừa tìm hiểu trái cây đặc sản của Việt Nam và đã bị chinh phục khi được thưởng thức những trái bơ sáp mang thương hiệu Trịnh Mười tại Buôn Ma Thuột. Ông Trịnh Xuân Mười, Giám đốc Công ty TNHH Trịnh Mười, người có quá nhiều duyên nợ với trái bơ, người giàu lên từ bơ, nhanh chóng hiểu ra rằng, thời cơ của mình và của những người trồng bơ trên đất Tây Nguyên đã đến.
Cây bơ đem lại hiệu quả kinh tế cao cho bà con nông dân Dak Lak. Ảnh: T.L
Vào cuối những năm 1990, chính ông Trịnh Xuân Mười là người tìm ra và thực hiện phương pháp ghép giữa chồi bơ thực sinh và cành bơ đầu dòng để có được những giống bơ ghép cho năng suất cao, chất lượng cao. Năm 1999, trong vườn cà phê rộng 1,8 ha của mình, ông Mười cho trồng xen canh 200 cây bơ sáp ghép, sau 3 năm, ông đã “hái ra tiền”. Năm 2011, vợ ông thu 800 triệu đồng từ bơ trái của 200 cây bơ này, còn ông thu hơn 1 tỷ đồng từ cành để ghép giống. Không chỉ có vậy, phương pháp ghép giống bơ của ông đã thúc đẩy một nhận thức mới, một hành động mới về trái bơ trên đất Tây Nguyên. Người nông dân Tây Nguyên hiểu rằng, chỉ có những giống bơ ghép, chứ không phải những giống bơ cũ được trồng bằng hạt, mới tạo nên tiền bạc và tên tuổi. Nhu cầu giống bơ ghép tăng mạnh ở Tây Nguyên. Để đáp ứng nhu cầu, Viện Khoa học Kỹ thuật Nông lâm nghiệp Tây Nguyên đã vào cuộc sản xuất giống bơ ghép, và họ đã thành công với nhiều giống bơ mới, mà đặc biệt là giống bơ Booth hiện rất được nông dân ưa chuộng. Và vào năm 2010, Công ty Dakfarm đã thành công trong việc tạo ra những giống bơ sáp ghép trái vụ/nghịch mùa có giá trị kinh tế vượt trội so với những giống bơ chính vụ.
Sự lên ngôi của cây bơ ở Tây Nguyên đã thu hút sự quan tâm của chính quyền sở tại và của cả chính nước ngoài. Năm 2007, Chính phủ Đức đã đứng ra tài trợ Dự án Phát triển chuỗi giá trị bơ Dak Lak nhằm nâng cao nhận thức của người tiêu dùng về một loại trái cây nữ hoàng, xác định các phương thức trồng trọt và chăm sóc bơ đúng tiêu chuẩn, xây dựng các quy trình và quy chuẩn trong vận chuyển, bảo quản và tiêu thụ trái bơ thành phẩm. Theo các đánh giá chuyên môn, dự án này vẫn để lại những dư vị ngọt ngào cho đến tận hôm nay.
Theo thống kê, trên địa bàn Dak Lak hiện có 2.500 ha bơ chủ yếu trồng rải rác trong các vườn nhà, chỉ một số ít được trồng tập trung theo hướng sản xuất hàng hóa. Ở Lâm Đồng, vùng đất có khí hậu và thổ nhưỡng cực kỳ thích hợp với cây bơ, có khoảng 400 ha bơ, trong đó có gần 200 ha mới trồng theo hướng sản xuất hàng hóa. Với diện tích trên, theo ước tính, tổng sản lượng bơ của Tây Nguyên chỉ vào khoảng 30.000 tấn, một con số rất nhỏ nhoi trong một thị trường gần 90 triệu dân, và một thị trường quốc tế đang khao khát những trái bơ có phẩm cấp cao. Ông Nguyễn Văn Lạng, Thứ trưởng Bộ Khoa học - Công nghệ, nguyên Chủ tịch UBND tỉnh Dak Lak, người có nhiều công lao trong việc xây dựng và phát triển chuỗi giá trị bơ Tây Nguyên cho rằng, sở dĩ cây bơ phát triển chưa tương xứng với tiềm năng bởi không có những nhà đầu tư lớn có khả năng xác lập các vùng chuyên canh, có khả năng xây dựng và quảng bá thương hiệu, có khả năng thiết lập một hệ thống phân phối và bán hàng chuyên nghiệp.
Trước khi cây bơ Tây Nguyên được chú ý và lên ngôi vào năm 2007, trái bơ Tây Nguyên chủ yếu được tiêu thụ bởi các đoàn khách du lịch, bởi các người dân sở tại mua làm quà biếu cho người thân ở xa. Khi trái bơ lên ngôi, một loạt người thân của các nhà vườn trồng bơ ở Tây Nguyên làm ăn và sinh sống ở Hà Nội, TP.Hồ Chí Minh… đã trở thành những kênh phân phối không chuyên nghiệp nhưng quan trọng cho trái bơ. Theo ông Nguyễn Văn Lạng, hệ thống phân phối nhỏ lẻ này đã góp phần tạo đầu ra và quảng bá tiếp thị cho trái bơ nhưng cũng đã tạo nên nhiều hệ lụy với việc cung cấp những trái bơ có phẩm cấp thấp, bảo quản kém trong quá trình lưu thông phân phối. “Với hệ thống phân phối kiểu truyền thống này, trái bơ chưa mặc định được một vị trí vững chắc đối với người tiêu dùng”, ông Lạng nói.
Vào năm 2007, khi Dự án Phát triển chuỗi giá trị bơ Dak Lak do Chính phủ Đức tài trợ được triển khai, Công ty TNHH Thu Nhơn được chỉ định làm nhà phân phối cho trái bơ Dak Lak. Nỗ lực của dự án và của chính Công ty Thu Nhơn đã xác lập được vị trí nữ hoàng của trái bơ. Trái bơ trở thành món ăn trong các chuyến bay của Vietnam Airlines, xuất hiện trong các siêu thị và khách sạn lớn trên toàn quốc. Trong giai đoạn 2007 - 2010, mỗi ngày Công ty Thu Nhơn xuất ra 4 - 5 tấn bơ vẫn không đáp ứng đủ nhu cầu của các khách hàng dù giá cao chót vót. Vào đầu năm 2011, khi Dự án phát triển chuỗi giá trị bơ Dak Lak hết hiệu lực, Công ty Thu Nhơn không còn nhận được sự trợ giúp về nguồn vốn và nhân lực chất lượng cao, trái bơ đã không còn xuất hiện ở những nơi mà đáng ra nó phải xuất hiện. Bà Nguyễn Thị Thu Nhơn, Giám đốc Công ty TNHH Thu Nhơn cho biết, vào thời điểm hiện tại, do thiếu vốn và thiếu nhân lực, mỗi ngày công ty chỉ xuất đi 300 - 400 kg bơ, bằng 1/10 trước đây. Bà Thu Nhơn ao ước có 10 - 15 tỷ đồng vốn như trước đây để duy trì và phát triển vị trí của trái bơ trên thị trường trong nước và tiến tới xuất khẩu ra nước ngoài. Công ty TNHH Trịnh Mười cũng đang nỗ lực đưa trái bơ ra thị trường nước ngoài. Tuy nhiên, hiện tại, công ty này cũng chỉ đưa ra được 300 - 400 kg/ngày. “Thiếu vốn nên lực bất tòng tâm. Tôi đã cay đắng lùi chuyện làm ăn với các vị khách Nhật Bản”, ông Trịnh Xuân Mười ngậm ngùi cho biết. Ông Mười nêu ra một thực trạng chua chát: những nhà phân phối bơ như ông, như bà Nguyễn Thị Thu Nhơn không phải là những nhà đầu tư thương mại hùng mạnh, mà chỉ là những người có duyên nghiệp và yêu mến trái bơ mà thôi, vì vậy rất khó để phát triển thị trường. “Cây bơ Tây Nguyên rất cần những nhà đầu tư thương mại hùng mạnh để có một chuỗi cung ứng hùng mạnh”, ông Mười nói.
Chu Vĩnh Hải
- Kỹ thuật chăn nuôi gia súc, gia cầm và các loại đặc sản
- Kỹ thuật trồng trọt cây ăn trái, rau màu và các loại cây lương thực, cây công nghiệp khác
Các tin khác:
Xem các tin năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009:
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
38
39
40
41
42
43
44
45
46
47
48
49
50
51
52
53
54
55
56
57
58
59
60
61
62
63
64
65
66
67
68
69
70
71
72
73
74
75
76
77
78
79
80
81
82
83
84
85
86
87
88
89
90
91
92
93
94
95
96
97
98
99
100
101
102
103
104
105
106
107
108
109
110
111
112
113
114
115
116
117
118
119
120
121
122
123
124
125
126
127
128
129
130
131
132
133
134
135
136
137
138
139
140
141
142
143
144
145
146
147
148
149
150
151
152
153
154
155
156
157
158
159
160
161
162
163
164
165
166
167
168
169
170
171
172
173
174
175
176
177
178
179
180
181
182
183
184
185
186
187
188
189
190
191
192
193
194
195
196
197
198
199
200
201
202
203
204
205
206
207
208
209
210
211
212
213
214
215
216
217
218
219
220
221
222
223
224
225
226
227
228
229
230
231
232
233
234
235
236
237
238
239
240
241
242
243
244
245
246
247
248
249
250
251
252
253
254
255
256
257
258
259
260
261
262
263
264
265
266
267
268
269
270
271
272
273
274
275
276
277
278
279
280
281
282
283
284
285
286
287
288
289
290
291
292
293
294
295
296
297
298
299
300
301
302
303
304
305
306
307
308
309
310
311
312
313
314
315
316
317
318
319
320
321
322
323
324
325
326
327
328
329
330
331
332
333
334
335
336
337
338
339
340
341
342
343
344
345
346
347
348
349
350
351
352
353
354
355
356
357
358
359
360
361
362
363
364
365
366
367
368
369
370
371
372
373
374
375
376
377
378
379
380
381
382
383
384
385
386
387
388
389
390
391
392
393
394
395
396
397
398
399
400
401
402
403
404
405
406
407
408
409
410
411
412
413
414
415
416
417
418
419
420
421
422
423
424
425
426
427
428
Kỹ thuật chăn nuôi, trồng trọt, nuôi trồng và chế biến thủy hải sản
Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.