Nguồn tin: Nhân Dân, 11/10/2012
Ngày cập nhật:
12/10/2012
Người dân miệt vườn Cần Thơ mua bán trái cây tại chợ nổi Phụng Hiệp.
PGS, TS Nguyễn Minh Châu, Viện trưởng Viện Cây ăn quả miền nam cho rằng: Ðể thoát khỏi những bất cập, vướng mắc về thị trường đầu ra thì điều đầu tiên cần có chính sách nhất quán trong việc quy hoạch phát triển cho trái cây Việt, cần tập trung cho chương trình VietGAP vì đây là một trong những tiêu chuẩn quan trọng để bảo đảm về chất lượng trái cây tiêu thụ trong nước và mở rộng thị trường xuất khẩu.
Thực tế, đây đang là một trong những bài toán khó nhưng vẫn phải làm bởi đó chính là hướng ra cho trái cây Việt Nam.
Mở rộng thị trường xuất khẩu
Một thực tế là những năm gần đây, trái cây Việt Nam đã được mở rộng xuất khẩu sang thị trường nhiều nước trên thế giới như Nhật Bản, châu Âu, Mỹ... nhưng thực chất thị trường lớn nhất vẫn là Trung Quốc. Tuy nhiên, mới đây Trung Quốc có nhiều chính sách nhằm thu hẹp nhập khẩu trái cây của Việt Nam gây tác động xấu đến thị trường trái cây trong nước. Về vấn đề này, GS Võ Tòng Xuân cho rằng: 'Ðiều trước tiên để không bị lệ thuộc vào thị trường Trung Quốc thì phải tìm cách mở rộng thị trường xuất khẩu trái cây sang nhiều nước khác nhau. Trong đó, tập trung vào những nước có nhu cầu lớn và giá trị nhập khẩu trái cây cao như Nhật Bản, Mỹ, Nga...'. Theo GS Võ Tòng Xuân, để làm được điều này thì trước tiên phải sản xuất được trái cây thật sự có chất lượng để xuất khẩu tươi trực tiếp hoặc các doanh nghiệp chế biến thành phẩm từ trái cây Việt Nam rồi xuất khẩu ra nước ngoài. Ðến nay, một số doanh nghiệp Việt Nam đã và đang thành công trong việc chế biến thành phẩm trái cây như mít sấy khô, khoai lang sấy, chuối sấy... xuất khẩu, được khách hàng quốc tế rất ưa chuộng.
Chuyên gia nông sản Nguyễn Lâm Viên, chủ của hàng loạt sản phẩm trái cây Việt Nam sấy khô xuất khẩu đã được khẳng định trên thị trường quốc tế, nói: 'Chất lượng của hàng loạt trái cây Việt Nam như xoài cát Hòa Lộc, bưởi Năm Roi, nhãn, sapoche (hồng xiêm), đu đủ... ngon hơn hẳn các sản phẩm cùng loại của các nước láng giềng. Thậm chí, giá của xoài cát Hòa Lộc, bưởi Năm Roi còn được bán tại thị trường trong nước với giá cao hơn giá của trái cây nhập ngoại. Nhưng ngay tại thị trường trong nước, các loại trái cây này đang bị cạnh tranh mạnh mẽ bởi những sản phẩm có xuất xứ từ Thái-lan, Mỹ...'. Phân tích về sự thua thiệt này, ông Viên cho biết: Tuy có chất lượng ngon nhưng ngược lại việc tổ chức sản xuất đang có 'vấn đề' như thiếu vùng chuyên canh tập trung để tạo ra chất lượng trái cây đồng đều, sản lượng rất thấp. Ðồng thời các khâu như đóng gói bao bì, chế biến, bảo quản các loại trái cây này thường không tốt nên người tiêu dùng không lựa chọn nhiều. Ðặc biệt, việc xuất khẩu trái cây hầu hết các doanh nghiệp đang 'tự bơi', không có được sự hỗ trợ trực tiếp từ các cấp, ngành từ trung ương đến địa phương và ngay như chi phí vận chuyển không được ưu ái nên giá trái cây xuất khẩu thường bị đội lên từ hai đến ba USD/kg. Ðể mở rộng thị trường xuất khẩu trái cây phải phụ thuộc vào ba yếu tố rất quan trọng là 'chất lượng - an toàn - giá cả'. Nhưng ở thời điểm hiện tại vẫn còn không ít người dân ở trong tình trạng 'ăn xổi, ở thì' chỉ vì những lợi nhuận trước mắt, phá vỡ các yếu tố trên và bất chấp sức khỏe của người tiêu dùng.
Theo PGS, TS Nguyễn Minh Châu, để khắc phục được những nhược điểm trong phát triển các vùng chuyên canh trái cây thì trước hết phải cần có quy hoạch tổng thể từ trung ương cho đến các địa phương và có thể đến tận phường, xã. Thực tế, các vùng trái cây đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN và PTNT) nhiều lần làm quy hoạch nhưng mới chỉ ở mức tổng thể mà không nói cụ thể như ai sẽ là người chịu trách nhiệm thực hiện, chính sách nào để hỗ trợ, tỉnh hay huyện nào thực hiện, thời gian nào, liên kết vùng của các cấp tỉnh, huyện và thậm chí là cấp xã... Do đó, dẫn đến tình trạng mạnh địa phương nào thì ở đó thực hiện nên hầu hết phát triển theo phong trào, thiếu ổn định về diện tích, chất lượng sản phẩm. Ông Châu cho rằng: Ngoài việc thực hiện theo quy hoạch chung do Bộ NN và PTNT đứng ra kết nối giữa các địa phương và mỗi địa phương chỉ nên tập trung cho từ một đến hai sản phẩm trái cây chủ lực. Ðồng thời, cần dành những chính sách của địa phương hỗ trợ trực tiếp cho loại trái cây đã được lựa chọn để nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo đủ nguồn hàng cung cấp cho nhu cầu thị trường trong và ngoài nước, tìm kiếm thị trường xuất khẩu ổn định cho trái cây tại địa phương.
Nâng cao chất lượng, an toàn cho trái cây
Theo đánh giá của Viện Nghiên cứu Cây ăn quả miền nam, những năm gần đây kim ngạch xuất khẩu trái cây của Việt Nam tăng rất mạnh. Năm 2011 đạt 630 triệu USD (tăng gần 70 triệu USD so năm 2010) và dự kiến năm 2012 đạt trên 700 triệu USD, mục tiêu hướng đến là 1,2 tỷ USD vào năm 2020. Thế nhưng cho đến nay, vấn đề đặt ra là: Tiêu chuẩn nào cho chất lượng, an toàn trái cây Việt Nam? Thực tế, tuy chất lượng trái cây ngon nhưng không có thương hiệu, không bảo đảm an toàn thực phẩm và không thể truy nguyên nguồn gốc sản xuất là một trong những rào cản lớn nhất cho việc hội nhập cũng như cạnh tranh của rau quả Việt Nam trong khu vực và thế giới hiện nay. Trong đó, nhiều lô hàng rau, quả Việt Nam xuất sang châu Âu bị phát hiện tồn dư thuốc bảo vệ thực vật và các chất khác vượt ngưỡng cho phép. Các lô hàng dứa Queen đóng hộp của Việt Nam bị châu Âu cảnh cáo là chứa hàm lượng nitrat quá cao. Như năm 2006, một lô hàng thanh long xuất qua thị trường Ðan Mạch cũng bị phát hiện tồn dư thuốc bảo vệ thực vật là Cypermethrin ở liều lượng 0,10 mg/kg (hạn mức cho phép tối đa MRL tại EU là 0,05 mg/kg). Mới đây, châu Âu tạm ngừng nhập năm loại rau của Việt Nam (húng quế, quế đắng; ớt; cần tây; khổ qua; ngò gai) từ 15-5-2012 đến 1-2-2013 do không tuân thủ yêu cầu kiểm dịch thực vật và an toàn thực phẩm. Ðể khắc phục tình trạng này, theo ông Châu cần tập trung thực hiện 'Quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp tốt (GAP)' cho rau, quả tươi an toàn tại Việt Nam - VietGAP. Phải tạo thành tiêu chuẩn chung cho trái cây Việt Nam và chỉ có vậy mới nâng cao được chất lượng, an toàn của trái cây khi tiêu thụ trong nước, xuất khẩu ra nước ngoài.
Thực tế, chương trình VietGAP được thực hiện từ tháng 1-2008, đến nay đã có hàng trăm HTX, DN, hộ gia đình ứng dụng. Chỉ tính riêng Viện Nghiên cứu Cây ăn quả miền nam đã chứng nhận, tái chứng nhận cho 23 mô hình ứng dụng theo VietGAP tại khu vực Ðông Nam Bộ và ÐBSCL. Ngay Bình Thuận có đến 5.768 ha thanh long, với 7.175 hộ dân tham gia ứng dụng VietGAP vào trồng thanh long. Tuy nhiên, hàng loạt các nơi đã ngừng, không thực hiện tái chứng nhận, thậm chí nhiều HTX, DN từng đi đầu trong ứng dụng VietGAP nhưng đã phải phá sản. Theo Trung tâm nghiên cứu phát triển thanh long Bình Thuận thì hiện nay chỉ có khoảng 70% diện tích tái ứng dụng quy trình VietGAP. Tại Vĩnh Long, DN Hoàng Gia được coi là nơi đi đầu áp dụng các tiêu chuẩn chất lượng an toàn cho trái cây và mỗi năm xuất khẩu từ 300 đến 400 tấn bưởi Năm Roi đi các thị trường như EU, Mỹ... và khi có chương trình VietGAP DN Hoàng Gia đã ứng dụng ngay. Thế nhưng năm 2011 doanh nghiệp này đã phải ngừng hoạt động. Ngay HTX vú sữa Lò Rèn Vĩnh Kim (Tiền Giang) ứng dụng các tiêu chuẩn chất lượng Global G.A.P và VietGAP vào trong sản xuất và đồng thời thu mua sản phẩm cho xã viên. Nhưng đến nay HTX rơi vào tình trạng bế tắc và đứng trước nguy cơ phá sản. Nguyên nhân chính được xác định do việc đầu tư quá lớn vào ứng dụng Global G.A.P và VietGAP, các quy trình thực hiện rất khắt khe nhưng trái lại sản phẩm tiêu thụ vẫn chỉ ngang bằng với sản phẩm thông thường. Nói về vấn đề VietGAP và Global G.A.P cho trái cây, GS Võ Tòng Xuân cho biết: Những cái 'chết' này được dự báo từ trước. Ðiểm đầu tiên có thể nhận biết là cơ chế, chính sách của địa phương và Nhà nước chưa nhất quán trong việc hỗ trợ để đẩy mạnh phát triển chương trình này mà hoàn toàn thả nổi từ đầu tư ban đầu đến đầu ra cho sản phẩm. Do đó, diện tích và sản lượng của VietGAP trong trái cây chỉ mang tính chất nhỏ lẻ, hầu hết chỉ phát triển khoảng 10 đến 20 ha, không bảo đảm nguồn cung ra thị trường. Nhưng để phát triển VietGAP trên diện tích từ hàng trăm ha trở lên thì chỉ một mình sức dân chắc chắn không làm được.
Ðặc biệt, qua gần năm năm thực hiện VietGAP và Global G.A.P nhưng chưa có logo hay giấy chứng nhận riêng cho sản phẩm để phân biệt với trái cây thông thường khác. Sản phẩm trái cây đang bị đánh đồng nên kể cả người tiêu dùng có nhu cầu cũng khó tìm kiếm được. Về góc độ người trồng, ông Ðặng Minh Hồng, Tổ trưởng Tổ hợp tác sản xuất thanh long Hồng Sơn 4, huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận, nói: 'Chưa cần biết giá bán có cao hơn hay không nhưng chỉ cần nhìn thấy trái thanh long được sản xuất theo quy trình VietGAP bỏ chung sọt với trái thanh long thông thường đã quặn thắt lòng, nhụt chí. Thực hiện VietGAP thì điều chúng tôi cần là sự công bằng cho từng loại sản phẩm'.
Ðể kích thích, tạo được sản phẩm trái cây đạt tiêu chuẩn về chất lượng và an toàn theo VietGAP, PGS, TS Nguyễn Minh Châu khẳng định: Ðối với thị trường trong nước, Nhà nước cần đứng ra làm trung gian gắn kết sản phẩm của VietGAP với các siêu thị, chợ đầu mối. Trong đó, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ bằng những quy chế cụ thể như kiểm tra phát hiện những sản phẩm trái cây, rau không an toàn đưa vào hệ thống siêu thị, chợ đầu mối ngoài việc phạt tiền còn tịch thu toàn bộ hàng hóa đó. Ngoài ra, đối với thị trường xuất khẩu thì vai trò của VietGAP đã được thể hiện rất rõ khi thời gian gần đây, nhiều khách hàng đến từ Mỹ, châu Âu chỉ lựa chọn sản phẩm được trồng theo quy trình VietGAP và Global G.A.P.
VIẾT ÐOÀN và TUẤN VŨ
- Kỹ thuật chăn nuôi gia súc, gia cầm và các loại đặc sản
- Kỹ thuật trồng trọt cây ăn trái, rau màu và các loại cây lương thực, cây công nghiệp khác
Các tin khác:
Xem các tin năm 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009:
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
38
39
40
41
42
43
44
45
46
47
48
49
50
51
52
53
54
55
56
57
58
59
60
61
62
63
64
65
66
67
68
69
70
71
72
73
74
75
76
77
78
79
80
81
82
83
84
85
86
87
88
89
90
91
92
93
94
95
96
97
98
99
100
101
102
103
104
105
106
107
108
109
110
111
112
113
114
115
116
117
118
119
120
121
122
123
124
125
126
127
128
129
130
131
132
133
134
135
136
137
138
139
140
141
142
143
144
145
146
147
148
149
150
151
152
153
154
155
156
157
158
159
160
161
162
163
164
165
166
167
168
169
170
171
172
173
174
175
176
177
178
179
180
181
182
183
184
185
186
187
188
189
190
191
192
193
194
195
196
197
198
199
200
201
202
203
204
205
206
207
208
209
210
211
212
213
214
215
216
217
218
219
220
221
222
223
224
225
226
227
228
229
230
231
232
233
234
235
236
237
238
239
240
241
242
243
244
245
246
247
248
249
250
251
252
253
254
255
256
257
258
259
260
261
262
263
264
265
266
267
268
269
270
271
272
273
274
275
276
277
278
279
280
281
282
283
284
285
286
287
288
289
290
291
292
293
294
295
296
297
298
299
300
301
302
303
304
305
306
307
308
309
310
311
312
313
314
315
316
317
318
319
320
321
322
323
324
325
326
327
328
329
330
331
332
333
334
335
336
337
338
339
340
341
342
343
344
345
346
347
348
349
350
351
352
353
354
355
356
357
358
359
360
361
362
363
364
365
366
367
368
369
370
371
372
373
374
375
376
377
378
379
380
381
382
383
384
385
386
387
388
389
390
391
392
393
394
395
396
397
398
399
400
401
402
403
404
405
406
407
408
409
410
411
412
413
414
415
416
417
418
419
420
421
422
423
424
425
426
427
428
Kỹ thuật chăn nuôi, trồng trọt, nuôi trồng và chế biến thủy hải sản
Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.