Nguồn tin: Báo Cần Thơ, 26/04/2016
Ngày cập nhật:
28/4/2016
Tình hình nắng nóng kéo dài, độ mặn cao và dịch bệnh vẫn chưa được khống chế, khiến người nuôi tôm nước lợ ở ĐBSCL dè chừng trong việc thả nuôi. Sau đây là khuyến cáo của chuyên gia đối với các địa phương và người dân vùng biển ĐBSCL để nuôi tôm nước lợ đạt hiệu quả.
Thu hoạch tôm sú ở Sóc Trăng.
Theo TS. Lê Hồng Phước, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản II, nhiệt độ tăng làm hàm lượng ôxy trong nước giảm mạnh, nhất là vào ban đêm. Nguyên nhân chủ yếu do các loài thực vật thủy sinh hoặc quá trình phân hủy hợp chất hữu cơ sử dụng quá nhiều hàm lượng ô - xy. Sự suy giảm hàm lượng ô - xy sẽ làm ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và phát triển của tôm nuôi khiến tôm có thể bị chết hoặc chậm lớn. Bên cạnh mặt tiêu cực, nhiệt độ tăng cũng là điều kiện thuận lợi cho nuôi trồng thủy sản. Bởi, khi nhiệt độ tăng trong khoảng cho phép sẽ làm tăng năng suất sơ cấp cho các ao nuôi, tạo điều kiện tốt cho sự phát triển của các loài thủy sinh - là nguồn thức ăn tự nhiên quan trọng cho các loài nuôi. Đặc điểm này tìm thấy trong các nghiên cứu tại các vùng nuôi phía Bắc của Việt Nam.
Mỗi loài tôm có khoảng độ mặn thích ứng khác nhau và thay đổi theo giai đoạn phát triển. Khoảng độ mặn của tôm sú là 5 - 32‰, tốt nhất là 28 - 32‰ cho sinh sản và 15 - 20‰ cho sinh trưởng và phát triển. Tôm càng xanh có thể chịu đựng độ mặn 0 - 25‰, tuy nhiên chỉ thích hợp cho phát triển ở độ mặn 0 - 15‰. Tôm thẻ chân trắng có khả năng chịu đựng độ mặn trong khoảng 0,5 - 45‰, nhưng chỉ phát triển tốt ở 10 - 15‰. "Trong điều kiện nhiệt độ và độ mặn cao như hiện nay, các địa phương cần có chương trình quan trắc thường xuyên các vùng mặn, lợ và cả vùng ngọt để có giải pháp thích ứng kịp thời. Thông tin quan trắc môi trường phải thường xuyên được cập nhật và nhất là đối với các vùng nuôi tôm tập trung. Trường hợp nắng nóng kéo dài và xâm nhập mặn cao cần chú ý điều chỉnh lịch thời vụ cho phù hợp"- TS. Lê Hồng Phước khuyến cáo. Đặc biệt, các địa phương cần nghiên cứu nuôi tôm thẻ theo quy trình biofloc, nhằm hạn chế thay nước hoặc nuôi tôm sú và tôm thẻ thâm canh trong điều kiện khép kín nguồn nước. Ương tôm trong điều kiện có kiểm soát: nhà màng, lót bạt – có mái che ở các mức độ khác nhau, trước khi đưa ra nuôi giai đoạn tiếp theo ở ao lớn. Ngoài ra, cần xây dựng và phát triển mô hình nuôi theo hướng có kiểm soát tốt và chủ động hơn; đảm bảo độ sâu để ổn định nhiệt độ, ít thay nước; lắng trữ nước có độ mặn thấp; dùng biện pháp xử lý tốt môi trường trong ao nuôi thông qua tăng cường ôxy hòa tan và vi sinh để xử lý chất thải, kiểm soát tảo trong ao nuôi, tăng cường sức đề kháng cho tôm. Để phát huy hiệu quả, cần nuôi tôm sú kết hợp, luân canh, xen canh với đối tượng khác. Phát triển mô hình tôm – lúa vùng nhiễm mặn thấp với mùa khô nuôi tôm quảng canh hay quảng canh cải tiến và cua, còn mùa mưa canh tác lúa xen canh với đối tượng khác như tôm càng xanh, cua hay cá. Nuôi thâm canh tôm sú, tôm thẻ luân canh với một số đối tượng nuôi lợ, mặn như: rô phi vằn, rô phi đỏ, cá bông lau, cá dứa, cá chẽm, cá kèo, cá măng, cá đối, cá chim vây vàng…
Ông Huỳnh Quốc Tịnh, Quản lý chương trình thủy sản của Quỹ Quốc tế bảo vệ thiên nhiên (WWF) tại Việt Nam, cho biết: Sau khi khảo sát phương thức sản xuất ở 34 trại nuôi tôm tại Thái Lan và 28 trại nuôi ở Việt Nam đối với tôm thẻ chân trắng, cùng 5 trại nuôi ở Thái Lan và 24 trại nuôi ở Việt Nam đối với tôm sú, WWF có những dữ liệu cơ bản để tính toán việc sử dụng tài nguyên trong nuôi tôm nước lợ. Từ những kết quả khảo sát, phân tích, theo ông Huỳnh Quốc Tịnh, vẫn có các cơ hội để cải thiện hiệu quả sử dụng tài nguyên trong nuôi tôm, như: tăng mức độ thâm canh trong nuôi tôm thẻ lên mức trên 15 tấn/ha/năm và tôm sú lên trên 5 tấn/ha/năm; cải thiện hệ số thức ăn bằng cách cho ăn hiệu quả; sử dụng nhiều quạt khí bằng cách áp dụng các loại quạt hiệu quả và giảm bớt sử dụng hóa chất vì hầu hết không có lợi cho sản xuất. "Bằng việc giảm hệ số thức ăn sẽ có ít ni - tơ, phospho và chất hữu cơ thải vào môi trường trên một đơn vị diện tích thức ăn dư thừa. Còn nếu giảm (hoặc tạm không) thay nước và cung cấp khí đầy đủ, hầu hết chất thải sẽ được xử lý ngay trong ao. Việc sử dụng nước nuôi tôm sẽ tương đương với lượng nước thải ra môi trường, nên khi chúng ta giảm sử dụng nước nuôi sẽ thải ít hơn nước thải ra môi trường trên một đơn vị sản phẩm" – ông Huỳnh Quốc Tịnh khuyến cáo.
XUÂN TRƯỜNG
- Kỹ thuật nuôi tôm, nuôi cá, phòng trị bệnh tôm, cá và các loại thủy sản khác
Các tin mới
Các tin năm 2016: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 61 62 63 64 65 66 67 68 69 70 71 72 73 74 75 76 77 78 79 80 81 82 83 84 85 86 87 88 89 90 91 92 93 94 95 96 97 98 99 100 101 102 103 104 105 106 107 108 109 110 111 112 113 114 115 116 117 118 119 120 121 122 123 124 125 126 127 128 129 130 131 132 133 134 135 136 137 138 139 140 141 142 143 144 145 146 147 148 149 150 151 152 153 154
Các tin năm 2015 | 2014 | 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009 | 2008 | 2007 | 2006 | 2005
Bệnh phân trắng không làm tôm chết nhanh và chết hàng loạt như bệnh đốm trắng hay bệnh gan tụy cấp, nhưng nếu không khống chế sẽ gây ra những thiệt hại to lớn cho người nuôi tôm...
Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.