Nguồn tin: Báo Quảng Trị, 02/12/2019
Ngày cập nhật:
3/12/2019
Những năm qua, nuôi trồng thủy sản (NTTS) nói chung và nuôi tôm nước lợ nói riêng trên địa bàn tỉnh đã đạt được những kết quả quan trọng. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, người nuôi cũng đang phải đối mặt với những nguy cơ của môi trường và dịch bệnh. Trước tình hình đó, Chi cục Thủy sản đã triển khai công tác quan trắc thường xuyên môi trường nuôi tôm nhằm phục vụ hiệu quả công tác chỉ đạo sản xuất, giảm thiểu nguy cơ dịch bệnh, đảm bảo sự phát triển bền vững…
Cán bộ Chi cục Thủy sản lấy mẫu nước để phân tích các chỉ tiêu môi trường
Là một trong những vùng nuôi tôm đầu tiên của tỉnh Quảng Trị nhưng thời gian qua người nuôi tôm ở các xã Gio Mai và Gio Việt, huyện Gio Linh phần lớn đều bỏ hoang hồ hoặc thả nuôi cầm chừng do nhiều năm bị thua lỗ do tôm bị dịch bệnh chết. Theo đánh giá của Chi cục Thủy sản, vùng nuôi tôm này mặc dù có diện tích lớn nhưng do không có các ao chứa lắng và xử lí nước thải nên người nuôi tôm buộc phải xả nước thải trực tiếp ra môi trường, dẫn đến môi trường nuôi bị ô nhiễm. Đó chính là nguyên nhân khiến cho tôm nuôi ở vùng này thường xuyên bị dịch bệnh chết hàng loạt trong những năm qua.
Phó Chi cục trưởng Chi cục Thủy sản Phạm Văn Hòa cho biết, hiện nay môi trường nuôi thủy sản đang bị suy thoái và có chiều hướng gia tăng, khó kiểm soát như vấn đề ô nhiễm nguồn nước do nước thải sinh hoạt, nước thải nông nghiệp và nước thải công nghiệp, cũng như hoạt động NTTS không ngừng phát triển đã làm gia tăng dịch bệnh thủy sản; bên cạnh đó, tình trạng biến đổi khí hậu đã và đang diễn ra ảnh hưởng không ít đến NTTS… Do đó, việc quan trắc môi trường phục vụ NTTS là hết sức cần thiết, giúp thông tin kịp thời, dự báo diễn biến môi trường vùng nuôi, mùa vụ nuôi. Tuy nhiên, theo ông Hòa, mặc dù là hoạt động đóng vai trò then chốt trong NTTS, nhưng do khó khăn về kinh phí và thủ tục, nên tháng 4/2019 vừa qua, UBND tỉnh mới có Quyết định số 926/QĐ-UBND về việc quan trắc môi trường NTTS. Trên cơ sở này, bắt đầu từ tháng 8/2019, định kì 2 lần/tháng Chi cục Thủy sản mới bắt đầu phối hợp cùng các địa phương thực hiện quan trắc, cảnh báo môi trường phục vụ cho NTTS.
Cụ thể, Chi cục Thủy sản tiến hành quan trắc môi trường nước ao nuôi đại diện và nguồn nước cấp tại 8 xã/ phường của 5 huyện/thành phố gồm: xã Vĩnh Thành, Vĩnh Thái, Vĩnh Sơn (huyện Vĩnh Linh); xã Trung Giang (huyện Gio Linh); xã Triệu Phước, Triệu Lăng (huyện Triệu Phong); xã Hải An (huyện Hải Lăng) và phường Đông Giang (thành phố Đông Hà). Các chỉ tiêu quan trắc trong môi trường nước ao nuôi bao gồm nhiệt độ, pH, độ trong, hàm lượng oxy hòa tan, độ mặn, hàm lượng Nitrit (NO2-), hàm lượng khí độc NH3/NH4+, độ kiềm, độ cứng, NO3-, PO43-, H2S, tổng chất rắn lơ lửng (TSS), nhu cầu oxy hóa học (COD), Coliforms, vi khuẩn Vibrio tổng số và Vibrio parahaemolyticus, thành phần và mật độ tảo; đối với nguồn nước cấp bên cạnh các chỉ tiêu trên còn quan trắc thêm hàm lượng kim loại nặng như Cadimi (Cd), thủy ngân (Hg), chì (Pb), các hóa chất bảo vệ thực vật nhóm Clo và Photpho. Dữ liệu quan trắc sau khi phân tích sẽ được tổng hợp và thông báo đến các vùng nuôi tôm trên địa bàn tỉnh, đồng thời hệ thống hóa thành cơ sở dữ liệu phục vụ đánh giá diễn biến môi trường theo thời gian. Từ đó, dự báo diễn biến môi trường phục vụ công tác chỉ đạo sản xuất.
Theo ông Hòa, việc quan trắc thường xuyên môi trường các vùng nuôi thủy sản không những có ý nghĩa quan trọng trong việc cung cấp các thông tin cho người nuôi giúp họ chủ động trong quản lí chất lượng nước vùng nuôi, phòng tránh dịch bệnh; đồng thời, từ kết quả quan trắc môi trường, cơ quan quản lí sẽ có căn cứ đánh giá tác động của hoạt động NTTS đến môi trường xung quanh và ngược lại; từ đó có định hướng quy hoạch phát triển nghề NTTS theo hướng bền vững. Đây cũng là nguồn dữ liệu quan trọng cho các đoàn thanh tra của các nước nhập khẩu đến Việt Nam tìm hiểu, đánh giá điều kiện NTTS của vùng. Theo đó, tại đợt quan trắc môi trường trong tháng 9/2019 vừa qua, sau khi phân tích các chỉ tiêu quan trắc Chi cục Thủy sản khuyến cáo: Tại các thời điểm độ mặn nguồn nước cấp xuống thấp, không nên cấp nước vào ao nuôi trong thời điểm này, chỉ cấp ít nước vào ao nuôi khi thật sự cần thiết, tránh trường hợp độ mặn giảm đột ngột làm ảnh hưởng đến tôm nuôi. Khi độ mặn ổn định, có thể cấp nước bổ sung cho ao nuôi, khi cấp nước nên cấp vào ao lắng lọc ở thời điểm đỉnh triều qua túi lọc, sau đó xử lí nước trong ao lắng lọc trước khi cấp cho ao nuôi.
Ông Hòa cũng khuyến cáo, theo dự báo của Trung tâm Dự báo Khí tượng Thủy văn Quốc gia trong thời gian tới bên cạnh mưa rào và dông thời tiết Quảng Trị bắt đầu đón những đợt gió mùa đông bắc đầu tiên. Nhiệt độ trung bình ngày vẫn khá cao nhưng chênh lệch ngày đêm lớn, nhiệt độ ban đêm sẽ xuống thấp. Đây sẽ là yếu tố làm môi trường nước thay đổi theo hướng bất lợi, ảnh hưởng nhiều đến sức khỏe động vật thủy sản. Để ổn định môi trường ao nuôi và nâng cao sức đề kháng cho tôm nuôi, ông Hòa lưu ý các cơ sở nuôi cần áp dụng các biện pháp như: Dự trữ nước sạch trong ao lắng đề cung cấp hoặc thay thế một phần ao nuôi khi cần thiết; bổ sung nước khi mực nước trong ao thấp hơn 1,5 m hoặc thay nước khi các thông số môi trường nằm ngoài giới hạn thích hợp, nước ao nuôi có màu xanh đậm, vàng đậm, đen hoặc có nhiều váng bọt nổi trên mặt nước. Duy trì mực nước trong ao trên 1,5m để giữ nhiệt độ ổn định cho ao nuôi, tạo rãnh thoát nước và bón vôi quanh bờ ao trước và sau khi trời mưa nhằm phòng tránh hiện tượng pH, độ mặn và độ kiềm trong ao giảm đột ngột khi trời mưa; khi trời mưa nhiều cần xả bớt nước tầng mặt để giảm nguy cơ độ mặn giảm đột ngột và nguy cơ tràn cống gây thất thoát tôm nuôi; kiểm tra pH thường xuyên khi thay đổi thời tiết, duy trì pH ở mức thích hợp từ 7 - 9 và dao động giữa sáng và chiều không quá 0,5 đơn vị; đối với các ao nuôi pH thấp, cần tạt vôi vào ao để tăng pH; tăng cường sục khí để cung cấp oxy cho tôm nuôi và tránh sự phân tầng nhiệt; đồng thời thường xuyên xiphong đáy để làm giảm các khí độc trong ao nuôi.
Định kỳ sử dụng chế phẩm sinh học để cải thiện môi trường nước, kiểm soát mật độ tảo, ổn định độ pH và độ kiềm, giảm hàm lượng khí độc H2S, NH3, NO2- và kiểm soát mật độ vi khuẩn vibrio. Tăng cường quạt nước và máy sục khí về đêm và sáng sớm nhằm đảm bảo đủ oxy trong ao, đáp ứng nhu cầu của tôm nuôi. Thường xuyên kiểm tra thức ăn của tôm trong nhá (vó) để điều chỉnh thức ăn phù hợp, tránh dư thừa; tăng cường sức đề kháng cho tôm bằng cách bổ sung vitamin C, khoáng, vi sinh đường ruột, chất bổ gan trộn vào thức ăn cho tôm; quan sát phản ứng, màu sắc, đường ruột, gan tụy và phân tôm hàng ngày hoặc khi màu nước ao nuôi thay đổi bất thường hoặc mưa kéo dài để kiểm tra sức khỏe tôm nhằm có biện pháp xử lí kịp thời. Hạn chế đánh bắt, san thưa, vận chuyển, thả giống vào những ngày nắng nóng, thời điểm nắng nóng trong ngày. Đồng thời cần nhanh chóng tiến hành thu tỉa, thu hoạch các diện tích nuôi đạt kích cỡ, nhằm tránh ảnh hưởng của mưa bão. “Tần suất lấy mẫu quan trắc sẽ được thực hiện 2 lần/ tháng, nhằm kiểm tra các thông số về môi trường. Kết quả quan trắc và các khuyến cáo của chi cục sẽ được thông tin đến người nuôi thông qua cơ quan quản lí địa phương”, ông Hòa thông tin.
Thục Quyên
- Kỹ thuật nuôi tôm, nuôi cá, phòng trị bệnh tôm, cá và các loại thủy sản khác
Bệnh phân trắng không làm tôm chết nhanh và chết hàng loạt như bệnh đốm trắng hay bệnh gan tụy cấp, nhưng nếu không khống chế sẽ gây ra những thiệt hại to lớn cho người nuôi tôm...
Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.