Nguồn tin: Sài Gòn Giải Phóng, 17/03/2015
Ngày cập nhật:
18/3/2015
Le le là loài chim nước có giá trị kinh tế cao nhờ thịt ngon và bổ dưỡng. Chính vì vậy, loài chim trời này ngày càng trở nên quý hiếm và nhiều người đã tìm tòi nuôi thử nghiệm cho le le sinh sản, trong số đó có anh Salés và anh Du Cóp (người Chăm, An Giang) ở ấp Vĩnh Hòa, xã Vĩnh Hanh, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang là những người nuôi le le đạt hiệu quả cao nhất.
Đàn le le nuôi bán hoang dã.
Anh Sa Lés cho biết, nuôi le le thịt không khó, chỉ cần diện tích rộng và thức ăn đầy đủ, còn nuôi le le cho sinh sản không dễ chút nào. Ba năm liền, hai anh đã dành ra nhiều thời gian nghiên cứu, tìm hiểu về đặc tính sinh trưởng của loài chim nước này, cuối cùng các anh mới khám phá hết đặc tính hoang dã của chúng.
Theo anh Sa Lés, le le là loài chim trời thích sống ở bưng biền hoặc những cánh đồng hoang vắng, nơi có nhiều lung, bàu, đầm lầy, nhất là các khu rừng tràm yên tĩnh, ít có bóng người lui tới. Le le không những biết bay mà còn bơi lội và lặn rất giỏi. Với đặc tính đó, chuồng nuôi le le phải rộng và thoáng, giữa có hồ nước, xung quanh trồng nhiều cỏ dại như sậy, lục bình, năng, lát để tạo môi trường hoang dã cho chim trú ẩn và đẻ trứng. Nhằm đề phòng chuột, mèo, anh đã bao quanh chuồng một lớp hàng rào lưới dày và chắc chắn.
Trong thiên nhiên, le le thường đẻ vào mùa mưa, khoảng tháng 7 - 8, mỗi con đẻ từ 10 - 15 trứng. Sau khi nở vài ngày, le le con sẽ theo mẹ đi kiếm ăn trên khắp các cánh đồng. Muốn bắt chúng, người đi săn phải dùng lưới. Đôi khi phát hiện được ổ trứng le le đem về cho gà ác hoặc gà tre ấp vẫn nở bình thường.
Theo anh Du Cóp, le le con bắt ngoài thiên nhiên rất dễ nuôi và mau lớn như gà vịt. Trong môi trường bán hoang dã chúng sống rất khỏe mạnh, hầu như chưa bao giờ bị dịch bệnh. Thức ăn chính của chúng là lúa, ngoài ra còn ăn cả rong rêu và lục bình. Sau 8 tháng nuôi, le le trưởng thành, các thương lái tìm đến đặt hàng không đủ để cung cấp.
Với le le nuôi, muốn chúng đẻ và ấp trứng nên lót ổ nơi khô ráo. Điều cần lưu ý là sau khi le le đẻ, người nuôi không được sờ tay vào trứng hoặc dời tổ đi nơi khác. Le le ấp trứng cũng như vịt, sau khi nở, le le con được bố mẹ chăm chút rất kỹ.
Có thể nói anh Sa Lés là nông dân đầu tiên ở An Giang có sáng kiến nuôi le le thịt và le le sinh sản đạt hiệu quả cao. Với diện tích chuồng trại khoảng 300m2, năm nào anh Sa Lés cũng thả nuôi từ 800 - 1.000 con, bán với giá 500.000 - 550.000 đồng/con, thu nhập bình quân trên 400 triệu đồng. Anh cho biết vào mùa tết, le le được các thương lái mua chuyển sang Trung Quốc, một số ít giao cho các nhà hàng trong nước.
Từ xa xưa, ông cha ta đã coi món “le le” như một món ăn dân dã: Thương chồng nấu cháo le le. Nấu canh bông bí nấu chè hột sen. Ngày nay, dân sành điệu ẩm thực coi le le là “hàng độc”, món ngon bổ dưỡng trong những ngày đầu năm nên ai ai cũng muốn thưởng thức.
HOÀI PHƯƠNG
- Kỹ thuật chăn nuôi gia súc, gia cầm và các loại đặc sản
- Kỹ thuật trồng trọt cây ăn trái, rau màu và các loại cây lương thực, cây công nghiệp khác
Các tin chăn nuôi khác:
Các tin năm 2015: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59
Các tin năm 2014 | 2013 | 2012 | 2011 | 2010 | 2009 | 2008 | 2007
Kỹ thuật chăn nuôi, trồng trọt, nuôi trồng và chế biến thủy hải sản
Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.